Vibay

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Không quân Việt Nam dùng tiêm kích nào thay thế 'huyền thoại' MIG-21?

Với khả năng cất cánh trên đường băng dã chiến, MiG –35 có thể xuất phát từ bất kỳ vị trí nào trên tuyến bờ biển, bay thấp rồi bất ngờ tấn công, tiêu diệt đối phương và nhanh chóng thoát ly trận địa.

MiG- 21 có nghĩa là chiến thắng.


Bầu trời tất cả các nước trên thế giới đều giống nhau, một không gian vô hạn được xác định ước lệ bằng biên giới trên đất liền. Nhưng đối với không quân của mỗi nước lại có học thuyết quân sự riêng biệt, từ đó hình thành nghệ thuật tác chiến đường không riêng biệt. Căn cứ vào những yếu tố đặc thù như: lãnh thổ, con người, lịch sử, truyền thống, kinh nghiệm và phương tiện chiến đấu đã hình thành lên chiến thuật tác chiến đường không.

Hiện nay không quân Mỹ rút kinh nghiệm từ chiến tranh Việt Nam để xây dựng các tiêu chuẩn chiến đấu cấp chiến thuật, mà một tướng Mỹ đã khẳng định đó là “người Mỹ đã quen chiến đấu với các quân đội hạng ba” điều đó thể hiện một đặc điểm tác chiến khá thú vị. Do bị tổn thất khá nhiều trong chiến đấu ở Việt Nam, song hành với việc hoàn thiện và nâng cấp kỹ năng tác chiến đường không, các đơn vị không quân Mỹ có thêm yếu tố “kêu gọi yểm trợ”. Tức là khi phát hiện đối phương có quân số ngang tầm, nếu đó là lực lượng có khả năng tác chiến tốt, không quân Mỹ sẽ lợi dụng số đông để bao vây tiêu diệt.

Không quân Nga trong một góc độ nào đó, đã sử dụng kinh nghiệm tác chiến của ba cuộc chiến tranh để xây dựng lực lượng, phương tiện chiến tranh và phương thức tác chiến. Trong đó điển hình là quan điểm tác chiến tương đối chính quy, số lượng máy bay tương đương như đã từng thực hiện ở chiến tranh vệ quốc năm 1941 – 1945 và chiến tranh Triều Tiên, nhưng chuyên sâu về kỹ năng cận chiến do học hỏi kinh nghiệm từ chiến tranh Việt Nam.

Từ những yếu tố đã nêu có thể thấy nghệ thuật tác chiến của không quân Việt Nam cũng sẽ sử dụng triệt để các yếu tố đã mang lại chiến thắng cho lực lượng không quân anh hùng trong chiến tranh chống lại lực lượng không quân hùng hậu và mạnh nhất thế giới giai đoạn 1968 – 1972. Trong đó, yếu tố đóng vai trò quyết định giành thắng lợi là yếu tố tư tưởng – tinh thần trong mỗi người phi công tiêm kích, trong lực lượng và trong nhân dân Việt Nam.



Có những đặc điểm phổ biến và đóng vai trò quyết định trong nghệ thuật tác chiến trên không của không quân Việt Nam, được thể hiện rất rõ nét trong tổng kết các kinh nghiệm trước đây và phương thức huấn luyện chiến đấu ngày nay:

1- Do tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ và công nghiệp quốc phòng hạn chế, do đó số lượng máy bay chiến đấu của Việt Nam, thông thường ít hơn số lượng máy bay chiến đấu của đối phương nhiều lần.
2- Do đặc thù chiến đấu bảo vệ tổ quốc, yếu tố phòng ngự tiến công đóng vai trò chủ đạo trong nghệ thuật quân sự. Do đó phương thức tác chiến thường là: phục kích, tập kích đường không và các phương án là; bí mật tiếp cận, chiếm ưu thế trên không, tấn công ở tầm gần và rút lui nhanh chóng bảo vệ lực lượng. Với phương án tác chiến này, số lượng máy bay tiêm kích đánh chặn không cần đông, nhưng phải đảm bảo khả năng độc lập tác chiến cao, khả năng xuất kích tiến công bất ngờ (cất cánh ở những nơi bất ngờ nhất, hạ cánh ở những nơi địch khó phát hiện nhất).

Từ hai yếu tố đặc trưng đã nếu, không quân Việt Nam cần những máy bay có khả năng tác chiến đa nhiệm, có khả năng cơ động chiến đấu tiếp cận mục tiêu bí mật (trần bay thấp, lợi dụng địa hình), có khả năng độc lập xuất kích và cơ động chiến đấu (xuất kích từ một sân bay dã chiến bí mật và quay trở về sân bay bí mật khác). Máy bay phải gọn nhẹ, có khả năng cơ động, độc lập cao và cất cánh ở mọi điều kiện, mang đủ vũ khí theo nhiệm vụ được giao, có khả năng bay ở độ cao thấp nhằm tránh sự phát hiện của đich. Tấn công nhanh chóng, quyết liệt và thoát ly chiến trường một cách nhanh chóng.

MiG – trong khái niệm của Việt Nam đồng nghĩa với cánh bay chiến thắng, được xây dựng bởi những cánh én bạc MiG – 21 đã mang lại những chiến công huyền thoại trên bầu trời Việt Nam. Trên góc độ tư tưởng tinh thần người phi công, MiG đồng nghĩa với niềm tin chiến thắng. Tiếp nối truyền thống của MiG – 21, theo nhiều chuyên gia quân sự, tiêm kích MiG- 35 xứng đáng có một vị trí trong hàng ngũ những cánh bay của Không quân Việt Nam.

Tiêm kích MiG -35 là sự phát triển và hoàn thiện của các dòng máy bay nổi tiếng MiG – 29K/KUB và MiG 29M/M2. Là bước phát triển tiếp theo, MiG–35 có cấu trúc thiết kế đồng bộ với MiG 29K. Khung sườn, hệ thống động cơ, hệ thống điều khiển, cabin của phi công trên tất cả các máy bay đều giống nhau, ngoại trừ bộ phận gầm nhẹ, thay vì móc phanh máy bay đã sử dụng hệ thống dù hãm, các cánh của máy bay không gập.


MiG – 35.

MiG – 35 từ những kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam, được thiết kế là máy bay tiêm kích đa nhiệm, có mục đích thực hiện các nhiệm vụ:

- Chiếm ưu thế chủ động trên không;
- Đánh chặn các phương tiện tấn công đường không của đối phương;
- Triển khai các đòn tập kích đường không bằng vũ khí chính xác các mục tiêu trên đất liền và trên biển, không tiếp cận vùng phòng không của đối phương ban ngày và ban đêm trong mọi điều kiện khí hậu, thời tiết;
- Tiến hành trinh sát đường không có sử dụng các phương tiện trinh sát quang – điện tử và các phương tiện trinh sát radar – điện tử khác;
- Tác chiến trong đội hình không quân hỗn hợp và thực hiện nhiệm vụ điều hành tác chiến trên không các cụm máy bay hỗn hợp;

Trên máy bay MiG 35 được lắp đặt đài radar chủ động mảng pha, tổ hợp phòng thủ điện tử, hệ thống quang học và hệ thống phòng thủ thụ động. Trong biên chế trang thiết bị trên máy bay có một container quang học đồng bộ đa dụng, có thể thực hiện 3 nhiệm vụ: dẫn đường, chỉ thị mục tiêu và trinh sát quang điện tử.


Radar Zhuk – AE trên máy bay MiG-35.

Radar "Zhuk-AE» (FGA-29) lắp trên MiG 35 là radar mảng pha chủ động (AESA), có khả năng theo dõi cùng lúc 30 mục tiêu và có khả năng tấn công cùng lúc 2-6 mục tiêu trên khoảng cách đến 130 km. Đài có khối lượng 220 kg, anten nặng 105 kh. Đường kính anten là – 575mm, bao gồm có 680 đầu thu và truyền tín hiệu module, (theo kế hoạch sẽ nâng lến đến 1024). Công suất phát xung 3,4 kW. Công suất nguồn 5-6 kW.

Đài quan sát và chỉ thị mục tiêu, điều khiển hỏa lực quang học – radar OLS – UEM ba kênh truyền hình, quang ảnh nhiệt và laser.

Được sử dụng để truy tìm, theo dõi các mục tiêu trên không, xác định tọa độ góc của mục tiêu; dẫn mục tiêu, khóa mục tiêu và theo dõi mục tiêu, đo tọa độ, tầm xa và tốc độ, truyền thông tin về máy tính trên máy bay, đưa thông tin hình ảnh vô tuyến hoặc ảnh nhiệt lên màn hình đa chức năng multi indicator nhằm quan sát tổng quan không gian tình huống mục tiêu; quan sát bề mặt trái đất, đo khoảng cách đến các mục tiêu mặt đất, chiếu xạ mục tiêu mặt đất bằng lasar; Góc nhìn theo tầm là: - ±90°, góc nhìn theo cao độ là -15°...+60. Phát hiện mục tiêu trên không (máy bay tiêm kích) ở không gian bán cầu phía trước 45 km, không gian bán cầu phía sau 15 km. Đo xa mục tiêu trên không laser 15 km, đo xa theo mục tiêu mặt đất 20 km.



Phía trước cabin phi công.

Thiết bị quan sát mục tiêu phía dưới OLS-K là thiết bị nhằm phát hiện và tấn công các mục tiêu tầm thấp và mặt đất, bao gồm các kênh hồng ngoại, kênh televideo, bộ phận đo xa laser và chỉ thị mục tiêu, thiết bị phát hiện các loại đèn laser. Toàn bộ thùng container nặng 110 kg. Mục đích sử dụng: quan sát không gian mặt đất nhằm phát hiện, chỉ thị mục tiêu, khóa mục tiêu và tự động theo dõi mục tiêu trên mặt đất, chiếu xạ laser, chuyển tải tín hiệu televideo và tín hiệu ảnh nhiệt lên màn hình đa dụng multi indicator để quan sát tình huống không gian chiến trường, không ảnh thiết lập bản đồ địa hình và trinh sát. MIG-35 có khả năng phát hiện mục tiêu trên mặt đất (xe tăng, xuồng chiến đấu ) ở khoảng cách từ 20 – 40 km.

MIG-35 có thể đo xa mục tiêu trên mặt đất 20 km. Đài quan sát phát hiện mục tiêu tên lửa tấn công NA-SAR và đài quan sát phát hiện mục tiêu tên lửa phía trên BC-SAR. Bộ phận quan sát quản lý bán cầu không gian phía trên được lắp đặt sau đèn cabin phi công, đài quan sát mục tiêu tên lửa phía dưới được lắp trong 1 container gắn phía dưới của vỏ bọc động cơ bên trái. Đài có mục đích phát hiện tên lửa phóng từ bán cầu phía trên và phía dưới máy bay, theo dõi và chọn lọc mục tiêu tên lửa và phương tiện mang tấn công bằng tên lửa, theo dõi các tên lửa trên đường bay và đi qua liên tục, không bị ngắt quãng, đo tọa độ của tất cả các tên lửa tấn công. Tầm xa phát hiện mục tiêu phóng tên lửa - 50 km.Thiết bị phát hiện bức xạ laser SOLO được lắp đặt bằng hai module ở bên trái và bên phải khuyên cánh máy bay.




Được sử dụng nhằm phát hiện nguồn chiếu xạ laser, xác định tọa độ góc chiếu laser và tần số phát xung của đài phát laser. Có thể phát hiện các nguồn phát laser có bước sóng đến 1,06 micron và / hoặc 1,5 ... 1,6 mm, tần số xung đến 10 kHz. 

Máy bay MiG 35 được tăng cường khả năng phòng thủ do được lắp đặt các tổ hợp phòng thủ, giảm độ phản xạ hiệu dụng và bức xạ hồng ngoại, khả năng phát hiện và tấn công mục tiêu do sử dụng các bộ khí tài và hệ thống phát hiện, chỉ thị mục tiêu, có khả năng cất cánh và hạ cánh trên các sân bay không có thiết bị dẫn đường hạ cánh và không được chiếu sáng đường băng, đồng thời có khả năng hoạt động độc lập cao.


Một đặc điểm của cấu trúc thiết kể trang thiết bị điện tử cho phép theo yêu cầu của khách hàng có thể lắp đặt trên máy bay các trang thiết bị nâng cấp có công nghệ và chế tạo ở Nga cũng như ở nước ngoài.

Theo thiết kế, tất cả các hệ thống trên máy bay đều được lắp trang thiết bị theo nguyên tắc cặp đôi. Hệ thống máy tính điều khiển trên máy là hệ thống cặp đôi thay thế cho nhau, một máy tính hoạt động và một máy tính ở chế độ trực sẵn sàng. Mỗi động cơ đều dẫn động cho một hộp các bộ phận các thiết bị, hộp thiết bị tổ hợp cung cấp nguồn điện, thủy lực và dẫn động động cơ bơm dầu. Hệ thống điện nguồn cũng là cặp đôi máy phát điện. Thay vì có hai máy phát điện như MiG - 29, MiG - 35 có tới 4 máy phát điện. Để đảm bảo an toàn và giữ bí mật khi hoạt động trên sân bay dã chiến, MiG-35 được lắp thêm chế độ hệ thống điện nguồn độc lập, khi các động cơ điện có thể khởi động các bộ phận thiết bị của máy bay mà không cần khởi động động cơ. Điều đó cho phép ở điều kiện dã chiến có thể kiểm tra được toàn bộ hệ thống máy bay mà không cần nguồn điện bên ngoài hoặc khởi động động cơ trên mặt đất. Cũng trên MiG-35 có lắp đặt hệ thống cung cấp khí ô xy chủ động. Điều đó làm cho máy bay MiG-35 có thể hoạt động độc lập trên một sân bay dã chiến thông thường, không có các trang thiết bị phụ trợ.



Đông cơ RD – 33MK cắt bổ.

Động lực của máy bay là động cơ tua bin cánh quạt phản lực hai khoang hai buồng đốt RD-33MK không khói lấy từ máy bay MiG – 29. RD – 33MK có lực đẩy cực đại hai buồng đốt là 9000 kgf, lực đẩy cực đại là 5400 một buồng đốt, dự trữ thời gian là 4.000 giờ, sửa chữa nhỏ 1.000 giờ. Động cơ được lắp đặt buồng đốt không khói và hệ thống điều khiển điện tử mới chịu trách nhiệm toàn bộ (kiểuFADEC). Động cơ được thiết kế theo dạng module, theo đơn đặt hàng của khách hàng có thể lắp động cơ nâng cấp điều khiển vector đa hướng nhằm tăng cường tối đa khả năng cơ động của máy bay.

Buồng lái máy bay MiG – 35 hoàn toàn làm bằng kính trong suốt, cho phép phi công có thể quan sát không gian bán cầu phía trước và hai bên. Trong buồng lái có 3 màn hình multi indicator đa dụng và một màn hình vuông góc lớn trên kính buồng lái phía trước.

Vũ khí trang bị được treo trên 9 giá treo vũ khí ở dưới thân và cánh.
 Máy bay có trang thiết bị tiếp dầu trên không và hơn thế, có khả năng cấp dầu cho máy bay khác. MiG – 35 có một điểm rất đặc biệt, đó là công nghệ được chế tạo sử dụng nguyên lý chống rỉ của máy bay trên boong tàu sân bay với các tiêu chuẩn dành cho máy bay tiêm kích không quân hải quân. Chính điều này giúp cho MiG–35 có khả năng hoạt động rất tốt trong điều kiện môi trường nhiệt đới bờ biển.



Đông cơ RD – 33MK cắt bổ.

Súng tự động GS 30-1, cỡ nòng 30 mm, số lượng đạn 100 viên. Các loại vũ khí treo trên cánh: tên lửa Không đối không: R-27, RVV-АЕ, R-73, Tên lửa chống tàu Kh-31А và Kh-35, tên lửa tấn công các mục tiêu mặt đất: Kh-31P, Kh-25МL, Kh-29Т, Kh-29L, Rockets, Các loại bom có điều khiển và bom liệng, thủy lôi.




Từ những thiết kế cơ bản và vũ khí trang bị trên máy bay, có thể nhận thấy rõ ý đồ chiến thuật của nhà thiết kế. Các nhà sản xuất MiG–35, dựa trên những kinh nghiệm có được từ tiêm kích MiG–21 và MiG–35, có xu hướng thiết kế MiG–35 dành cho mội trường tác chiến nhiệt đới – biển. Nếu Su – 30MK2 là máy bay tiêm kích đánh chặn đa nhiệm, thì MiG–35 là máy bay tiêm kích đột phá đa nhiệm.

Với khả năng cất cánh trên đường bay dã chiến, MiG –35 có thể cất cánh từ bất kỳ vị trí nào trên tuyến bờ biển Việt Nam. Bằng tốc độ cao và tầm bay thấp, một biên đội MiG–35 có thể bay theo địa hình sát mặt nước biển, tránh được sự phát hiện của các máy bay AWACS của đối phương, đột ngột chiếm độ cao tấn công, cận chiến tiêu diệt đối phương, mau chóng thoát khỏi trận địa và quay trở về sân bay dã chiến ở một vị trí hoàn toàn bất ngờ với đối phương. Đây cũng là cách đánh truyền thống của không quân tiêm kích Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh 1968 - 1972, gây sự kinh hoàng đối với những phi công dày dạn kinh nghiệm của không quân Mỹ.

Ngoài ra, cũng với tốc độ cao ở độ cao thấp, MiG–35 có thể bất ngờ công kích các cụm ACTF (cụm không quân hải quân chiến thuật) của đối phương bằng tên lửa chống tàu Kh–31, Kh–35 và mau lẹ thoát khỏi vòng vây phòng ngự của máy bay đối phương trong thời gian ngắn. Với phương thức tác chiến đánh nhanh, thoát ly nhanh, một lực lượng không quân tiêm kích không lớn cũng có thể là một địch thủ đáng sợ trên vùng nước Biển Đông.

Trịnh Thái Bằng - Báo Tiền Phong

http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/645765/Khong-quan-Viet-Nam-dung-tiem-kich-nao-thay-the-huyen-thoai-MIG-21-tpod.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét