Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien bien Dong. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien bien Dong. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á

Tác giả: Benjamin Schreer, ASPI

Người dịch: Huỳnh Phan

01-11-2013

Bình luận gần đây về việc Tổng thống Barack Obama hủy bỏ vào phút cuối chuyến đi của ông đến cuộc họp APEC tại Bali và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Brunei phản ánh áp đảo lối suy nghĩ cổ điển ‘tổng bằng không’. Dư luận chung là tính đáng tin của việc Mỹ ‘xoay trục’ đã bị xói mòn nhiều thêm nữa, và rằng Trung Quốc đã sử dụng sự vắng mặt của Obama để củng cố vị trí của mình với các quốc gia ASEAN.

Tuy nhiên, chính trị quốc tế hầu như không theo động lực nhị phân như vậy. Trên thực tế, vì nhiều lý do, mục tiêu của Bắc Kinh nhằm tăng cường vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á với cái giá mà Washington phải chịu rất có nhiều khả năng thất bại. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo khu vực đều hiểu rất rõ rằng chuyến đi Đông Nam Á của Tổng thống bị hủy không đồng nghĩa với một sự thay đổi trong chiến lược châu Á của Hoa Kỳ. Các cường quốc khu vực chính như Malaysia và Indonesia thừa nhận việc Obama ở nhà là chuyện bắt buộc. Thay vào đó, Ngoại trưởng John Kerry đã tham dự cả hai cuộc họp và đã đưa ra thông điệp chính mà các nước Đông Nam Á muốn nghe: Mỹ hy vọng Trung Quốc và các nước láng giềng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông một cách hòa bình.

Thứ hai, thông điệp này làm lộ gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á: trong khi các nước ASEAN có tranh chấp đang mong muốn đàm phán, Bắc Kinh lại không sẵn sàng thỏa hiệp về chủ quyền lãnh thổ quá đáng của nước này ở Biển Đông. Tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường không những lặp lại rằng Bắc Kinh có ‘các quyền không thể tranh cãi’ bên trong đường ‘chín đoạn’ mà ông còn cảnh báo các nước không trực tiếp có dính dáng, kể cả Úc và Nhật Bản, phải đứng ngoài các tranh chấp này. Như vậy, Trung Quốc không đạt được nhiều tiến bộ trong việc thuyết phục các nước Đông Nam Á về thiện ý của mình. Nói một cách đơn giản, hành vi quyết đoán của họ trong Biển Đông đã gây ra hao hụt hầu như khó khôi phục về lòng tin giữa Bắc Kinh và các nước ASEAN. Nó cũng mở ra một con đường cho các đấu thủ bên ngoài như Ấn Độ và Nhật Bản tăng cường vai trò an ninh ở Đông Nam Á.

Thứ ba, kết quả là một số quốc gia Đông Nam Á tỏ dấu hiệu về hành vi ‘cân bằng bên trong’ và ‘bên ngoài’ chống lại Trung Quốc. Với hậu thuẫn chủ yếu của Nga, Việt Nam đang phát triển các thành phần khả năng ‘chống tiếp cận/ từ chối khu vực’ (anti-access/area-denial – A2/AD) để bù vào việc tăng cường lực lượng biển trong khu vực của Trung Quốc. Sau nhiều thập kỷ lo lắng về vấn đề an ninh nội bộ, Philippines đang cố gắng xây dựng một vị thế ‘phòng thủ đáng tin tối thiểu’ chống Trung Quốc. Những nước khác rõ ràng đang tìm cách che chắn khả năng có căng thẳng nhiều hơn ở Biển Đông. Chẳng hạn, Singapore mời Mỹ triển khai bốn tàu chiến ven biển. Họ cũng có khả năng chọn máy bay Joint Strike Fighter làm máy bay chiến đấu kế tiếp của mình, điều này sẽ tăng cường việc hợp tác quân sự với Mỹ.

Thứ tư, các diễn giải cho rằng sự vắng mặt của Obama là bằng chứng cho sự thiếu chuyên tâm về tái cân bằng là có vấn đề. Có hai lập luận chính thường được đưa ra. Một là Washington đang quá bận rộn với Trung Đông và hai là Hoa Kỳ không còn tiền để tài trợ cho việc chuyển trục về châu Á – Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc. Lập luận đầu không nhận thấy được rằng Mỹ vẫn còn là một cường quốc toàn cầu với trách nhiệm toàn cầu – đơn giản là vì phát biểu gần đây của ông Obama trước Đại hội đồng LHQ đề cập quá ít về châu Á – Thái Bình Dương so với Trung Đông không có nghĩa là Mỹ đột nhiên thiếu quan tâm đối với châu Á.

Lập luận thứ hai cũng không thuyết phục. Mặc dù có sức ép lên ngân sách quốc phòng của Mỹ, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục chuyển các hệ thống quân sự quan trọng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hồi đầu tháng 10, các quan chức Mỹ đã thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ triển khai máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đến Nhật Bản vào đầu năm 2014. Và vào năm 2017 thủy quân lục chiến sẽ bắt đầu triển khai F – 35B tới Nhật Bản, đánh dấu sự triển khai máy bay chiến đấu Joint Strike lần đầu bên ngoài nước Mỹ. Ngoài ra, Thủy quân Lục chiến Mỹ đang xây dựng một căn cứ chỉ huy cao cấp mới trên đảo Palawan ở Philippines để giám sát Biển Đông. Đường băng trên đảo sẽ được nâng cấp để có thể phục vụ việc không vận chiến lược của Mỹ (và có khả năng cho máy bay chiến đấu). Nói cách khác, Philippines là bước mới nhất trong chiến lược của Mỹ để tăng cường sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, làm phức tạp đáng kể kế hoạch hoạt động quân sự của Trung Quốc.

Cuối cùng, các đồng minh của Mỹ có vẻ sẵn sàng gánh vác nhiều hơn để hậu thuẫn việc xoay trục của Mỹ. Úc là một ví dụ. Thủ tướng Abbott vừa công bố quyết định của Chính phủ Úc chia sẻ chi phí tài chính cho sự hiện diện tăng cường của Thuỷ quân Lục chiến Mỹ ở Bắc Úc. Đồng thời, cách tiếp cận nồng nhiệt của ông với Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản – đồng minh châu Á quan trọng khác của Mỹ – tại hội nghị thượng đỉnh, bao gồm việc thừa nhận rằng Tokyo cần phải đóng vai trò an ninh khu vực tích cực hơn, đã làm ông nhận lãnh nhiều nhận xét gay gắt tại Bắc Kinh.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Úc, các đồng minh và đối tác Đông Nam Á của Mỹ hiện nay đang trong tiến trình chống Trung Quốc. Nhưng họ có một lợi ích cốt lõi trong việc duy trì sự hiện diện của Mỹ trong khu vực và có nhận thức sâu sắc về thời điểm bước vào vị trí. Trung Quốc còn quá xa mới tới chỗ làm suy sụp vị thế của Mỹ ở Đông Nam Á.

Benjamin Schreer là một nhà phân tích cấp cao tại Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI).

Nguồn: East Asia Forum

Tiếng Việt: Ba Sàm
0

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Biển Đông - Chiến trường mới của chủ nghĩa dân tộc châu Á

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

Thứ Bảy, ngày 19/10/2013

TTXVN (Paris 18/10)

Báo Le Monde ngày 10/10 có bài viết về tranh chấp ở Biển Đông cho rằng sự vắng mặt của Tổng thống Mỹ Barack Obama tại một loạt cuộc họp cấp cao diễn ra tại Đông Nam Á đầu tháng 10 đã tạo cơ hội để Trung Quốc tự do hành động với các vấn đề của khu vực. Nội dung chính bài viết như sau:

Về phía châu Á, tất nhiên đã có những tiếng nói bầy tỏ sự lo lắng đối với chiến lược “chuyển hướng” sang châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama, một yếu tố tạo đối trọng với các tham vọng của Trung Quốc, về phần mình, Trung Quốc tỏ ra khoan hòa và mong muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế trên mọi phương diện. Bắc Kinh cam kết tăng cường hội nhập thương mại với các nước Đông Nam Á và nâng gấp đôi mức trao đổi thương mại với các nước trong khu vực từ nay đến năm 2020. Còn các vấn đề lãnh thổ? Thủ tướng Lý Khắc Cường đã tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN tại Bandar Seri Begawan (Brunei): “Chúng ta cần cùng nhau làm việc để biển Biển Đông thành một vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác”.

Jean-Pierre Cabestan, một chuyên gia nghiên cứu thuộc Đại học Hong Kong nhận xét cuộc tấn công ngoại giao của Lý Khắc Cường cho thấy Bắc Kinh đang thay đổi chiến lược: “Có một thiện chí hòa dịu từ phía Trung Quốc. Không biết có phải là tạm thời hay không, nhưng tôi tin rằng Trung Quốc đã ý thức được các tác dụng phụ của cách tiếp cận hung hăng quá đà ngoài Biển Đông mà họ áp dụng tới nay. Người ta đã lưu ý thấy các cuộc tranh luận ở Trung Quốc, trong giới nghiên cứu, kể cả ở Trường Đảng và trong các nhóm chính thức, về cái giá của thái độ hung hăng này .

Theo Cabestan, cứ mỗi lần tham dự các diễn đàn kiểu này, Trung Quốc đều chơi chiêu bài như vậy. Các nước liên quan sẽ không tin lời hứa của Trung Quốc là thật, đặc biệt là Indonesia, quốc gia có trọng lượng ở ASEAN và có những tham vọng địa chính trị riêng. Tất cả vấn đề là ở chỗ đợi xem Trung Quốc có thiện chí với các cuộc thảo luận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông như Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã nêu tại Bandar Seri Begawan hay không.

Sau một thời gian dài tranh luận về chủ đề này, Bắc Kinh lần đầu tiên – tại một cuộc họp với ASEAN ở Túc Châu ngày 15/9 – đã chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử là một phần nghị sự trong các cuộc gặp chính thức giữa quan chức cấp cao Trung Quốc và những người đồng nhiệm ASEAN, cho phép bảo đảm tính liên tục trong các cuộc thảo luận và các tham vấn chính thức. Các khu vực trên Biển Đông đã thực sự trở thành một chiến trường đối đầu của các chủ nghĩa dân tộc châu Á và là nơi các mối căng thăng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Tham vọng xây dựng một lực lượng hải quân biển xa đang thúc đẩy Trung Quốc phá vỡ vòng vây vật chất và chiến lược được tạo thành từ chuỗi đảo nằm ven biển gần và từ các đồng minh hoặc các nước thân cận với Mỹ.

Sự khan hiếm các nguồn hải sản hoặc những sự tước đoạt và tình cảm tích tụ của các nhân tố khu vực nằm trong quỹ đạo của Bắc Kinh là một nguồn gây xung đột thường trực. Đó là chưa kể tới cuộc chạy đua vũ trang ở cấp độ lực lượng hải quân và sự phát triển ngoạn mục các khả năng triển khai sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Andrew s. Erickson, một chuyên gia nghiên cứu về hải quân Trung Quốc thuộc Trường Chiến tranh Hải quân Rhode Island (Mỹ), từng lưu ý trên tạp chí “The Diplomat” hồi tháng 3/2013 rằng “Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) ngày càng có nhiều nguồn lực khả năng và sự bảo đảm hơn để giá trị hóa các lợi ích của Trung Quốc trên vành đai mà Bắc Kinh yêu sách, đặc biệt tại các vùng biển gần.

Theo quan điểm của Trung Quốc, mọi vấn đề chủ quyền đều không thể đàm phán và Bắc Kinh muốn giành lại “các quyền lịch sử” đối với một vùng lãnh hải mênh mông ở Biển Đông. Như vậy, vùng lãnh hải này sẽ bao gồm Biển Hoa Đông, nơi có các hòn đảo không người sinh sống trên quần đao Senkaku (Điếu Ngư) mà Nhật Bản quản lý từ năm 1972; hoặc ở Biển Đông (Biển Hoa Nam), một vùng rộng lớn hình thành theo đường lưỡi bò, được ấn định bởi cái mà người Trung Quốc gọi “đường chín đoạn”, bao gồm 3 quần đảo và dải đá ngầm lớn. Trung Quốc hiện đang kiểm soát thực tế một phần, chẳng hạn quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa), nhưng đang muốn thâu tóm toàn bộ bất chấp các nước ven biển khác, trước hết gồm Việt Nam và Philippines, tiếp đến là Brunei, Malaysia và Indonesia.

Cho đến nay, Bắc Kinh đang triển khai một chiến lược hai mặt. Đối với các nước láng giềng và các đối thủ, Trung Quốc dựa vào cái mà nhà nghiên cứu Stephanie Kleine-Ahlbrandt (Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế – ICG) mô tả là “sự quyết đoán phản ứng”, có nghĩa là nắm bắt cơ hội từ khủng hoảng để đảo ngược nguyên trạng sao cho có lợi. Đó là trường hợp Trung Quốc đã làm với Nhật Bản sau khi Tokyo tiến hành quốc hữu hóa tháng 9/2012, quần đảo Senkaku vốn thuộc quyền sở hữu của một điền chủ Nhật Bản. Bắc Kinh đã lập tức chính thức yêu cầu Liên Hợp Quốc công nhận Điếu Ngư thuộc chủ quyền của Trung Quốc, sau đó ra lệnh cho các lực lượng tuần duyên của mình xâm nhập sâu và hầu như hàng ngày vào các vùng lãnh hải của Nhật Bản.

Theo Kleine-Albrandt, Bắc Kinh đang tìm mọi cách áp đặt một nguyên trạng mới, đó là ý đồ đồng quản lý các hòn đảo Senkaku/Điếu Ngư. Ở Biển Đông, năm 2012, Bắc Kinh lấy cớ Philippines khám xét tàu thuyền của các ngư dân Trung Quốc để giành quyền kiểm soát thực tế đảo Hoàng Nham (bãi đá cạn Scarborough) bằng các tầu riêng của mình. “Vùng biển” mà Bắc Kinh đòi chủ quyền ở Biển Đông là rất có vấn đề nếu chiếu theo các điều khoản trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 mà Trung Quốc phê chuẩn năm 1996. Một cách khái quát, việc sở hữu đầy đủ các hòn đảo và bãi cạn liên quan có thể dẫn tới việc thiết lập các vùng đặc quyền kinh tế quan trọng, nhưng trong mọi trường hợp đều không phải là một vùng biển gần quy mô lớn như Bắc Kinh chỉ định là “lãnh hải của Trung Quốc”.

Trung Quốc đã cho xây dựng cả một cơ sở tư pháp và hành chính hỗn hợp để làm chỗ dựa cho các yêu sách chủ quyền của mình. Tháng 7/2012, Trung Quốc đã thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa ở Hoàng Sa và dựng lên ở đây một trạm đồn trú của quân đội. Tam Sa là thành phố được trao thẩm quyền quản lý đối với một vùng lãnh hải nằm bên trong “đường chín đoạn”, gồm Trường Sa (Nam Sa) và bãi ngầm Macclesfield (Trung Sa) hiện đang chịu một phần kiếm soát của các nước Đông Nam Á. Tỉnh Hải Nam mà Tam Sa trực thuộc cũng ban hành một bộ luật ủy quyền cho các đơn vị tuần duyên khám xét trên một vùng biển rộng lớn các tàu thuyền “không tôn trọng các quy định” – chẳng hạn các ngư dân nước ngoài đi vào vùng được coi là đặc quyền kinh tế của Trung Quốc.

Sự không rõ ràng về bờ biền của Trung Quốc đã gắn chặt với tư duy nạn nhân hóa phức tạp – trước các cựu thực dân, trong đó có Nhật Bản và cả các cường quốc châu Âu thông qua đường biển – và với sự bao vây cũng như “trò chơi đồng minh” của Mỹ. Đó là chiến lược “chuyển hướng” sang châu Á-Thái Bình Dương mà Hillary Clinton đã đề cập lần đầu tiên vào tháng 11/2011. Chiến lược này đã liên tục bị Bắc Kinh chỉ trích kịch liệt là âm mưu “ngăn chặn Trung Quốc”, tóm lại là một thách thức công khai đối với chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc cho dù Bắc Kinh không thể gọi rõ tên.

Chiến lược của Mỹ đã “khích lệ và tăng cường” nhu cầu của các nước châu Á về mặt an ninh. Đây chính là quan điểm – được nêu trên diễn đàn “Thời báo Hoàn cầu” tháng 3/2013 – của Lưu A Minh, chuyên gia nghiên cứu thuộc Viện khoa học xã hội Thượng Hải: “Mỹ đã khai thác nhu cầu hoặc sự lo ngại về an ninh của các nước châu Á trong một ý tưởng rằng các nước này sẽ phục vụ cho chiến lược riêng của Mỹ, trong khi sự trỗi dậy của Trung Quốc lại trở thành sự bao biện cho việc theo đuổi một chiến lược như vậy”.

Bắc Kinh đã dựng lên một hàng rào rất cao và mọi nhượng bộ của giới lãnh đạo đối với phạm vi chủ quyền trên biển đều đẩy họ hứng chịu búa rìu của dư luận Trung Quốc. Công cuộc tái chinh phục vùng ảnh hưởng tại châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn là một dự án dài hạn đối với Trung Quốc. Nếu muốn gạt bỏ thách thức, Mỹ buộc phải tránh bị gạt ra rìa trên lĩnh vực kinh tế và phải chứng tỏ được mình tại các hội nghị thượng đỉnh của khu vực./.

Theo Ba Sàm
0

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Chính sách đối ngoại đu dây của Việt Nam

Tác giả: Dennis C McCornac - Đại học Loyola Maryland

Người dịch: Huỳnh Phan

12-10-2013

Cách tiếp cận chính sách đối ngoại mới của Việt Nam, mà một số nhà phân tích đã gán cho là ‘thêm bạn, bớt thù’, phản ánh vị trí bấp bênh như một con chim trên dây giăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.


Trong vài tháng qua, các quan chức Việt Nam đã tổ chức một số cuộc họp cấp cao với các nhà lãnh đạo của cả hai nước này. Vào cuối tháng 7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến Washington để thảo luận về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Tổng thống Barack Obama, làm nổi rõ mối quan hệ đã được cải thiện giữa hai cựu thù theo chiến lược ngày càng chú trọng tới châu Á của Mỹ. Hơn một tháng sau đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và nhắc lại chính sách lâu dài và nhất quán về củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng và hợp tác với Trung Quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Cơn lốc ngoại giao này là bằng chứng cho thấy Việt Nam mong muốn duy trì mối quan hệ kinh tế và quân sự ổn định và bình thường với cả Trung Quốc và Mỹ, một cái gì đó đặc biệt quan trọng trong điều kiện trước đây Việt Nam đã từng có xung đột với mỗi nước này trong lịch sử, và cũng cho thấy tầm quan trọng của hai nước này đối với mục tiêu của Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam lo lắng về sự trỗi dậy của Bắc Kinh, và chính sách đối ngoại mới của họ là hướng tới việc chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nhưng về mặt ý thức hệ, Việt Nam thấy thoải mái với Trung Quốc hơn với Mỹ. Còn về mặt kinh tế, Trung Quốc là một thị trường lớn, một nguồn giúp đỡ tài chính và một mô hình phát triển. Điều này đã đặt Việt Nam ở một vị trí không dễ chịu. Một quan chức chính phủ Việt Nam đã mô tả Việt Nam như đang đánh đu trên một sợi dây, do Trung Quốc giữ một đầu và Mỹ giữ đầu kia.

Một vấn đề về chính sách đối ngoại tiếp tục gây tai họa cho mối quan hệ Việt – Trung liên quan đến việc cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa. Vấn đề quan trọng nhất đang đe dọa là nước nào có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong và dưới các vùng biển xung quanh hai quần đảo này. Mặc dù trữ lượng đã qua kiểm chứng chưa xác định rõ, dự báo lạc quan nhất từ Trung Quốc cho thấy nguồn tài nguyên dầu tiềm năng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và có thể lên đến 213 tỉ thùng dầu và khu vực này cũng rất giàu khí đốt tự nhiên. Cả hai quốc gia đã dự tính tới khả năng thực hiện hành động quân sự. Nhưng bây giờ, họ đã cam kết đàm phán một cách hòa bình tìm giải pháp bất chấp sức ép của những thành phần dân tộcchủ nghĩa ở cả hai bên vẫn kiên định về các vấn đề chủ quyền.

Căng thẳng kinh tế giữa hai nước cũng có thể phá hỏng mối quan hệ. Một mặt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là do nhu cầu vô độ của Trung Quốc về hàng hóa và các nguồn tài nguyên. Duy trì tăng trưởng kinh tế cho một quốc gia gần 1,4 tỉ công dân đòi hỏi một lượng tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, phần lớn trong số đó là phải nhập khẩu. Và vì Trung Quốc lùng sục khắp thế giới xây dựng các mối quan hệ kinh tế để bảo đảm nguồn cung cấp liên tục các mặt hàng như than đá, dầu thô, quặng sắt, nên việc họ tìm chỗ giúp đỡ ngay người láng giền gần gũi cũng là việc đương nhiên.

Mặt khác, các cách biệt giữa hai nước, đặc biệt là về tầm cỡ kinh tế và quyền lực chính trị, có nghĩa là việc mở cửa thị trường không phải là một tình thế win- win đúng nghĩa. Lưu lượng hàng hóa Trung Quốc, cả buôn lậu qua biên giới lẫn nhập khẩu hợp pháp vào thị trường Việt Nam, đã tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Mối quan ngại đặc biệt ở Việt Nam là phần lớn các hàng hoá này đều có chất lượng thấp, nguồn gốc không rõ ràng và có thể chứa các chất độc và các chất có hại khác cho sức khỏe con người. Một số sản phẩm có thể làm ra được tại Việt Nam, nhưng vẫn còn nhập khẩu vì có lợi về giá thành. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu Trung Quốc này đã đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tới mức báo động và việc Việt Nam nương tựa quá nhiều vào thương mại với Trung Quốc dự kiến là chỉ có tăng lên theo thời gian.

Tuy nhiên, ngoài những va chạm về kinh tế và tranh chấp lãnh thổ, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây đã được cải thiện, và tính chất hòa giải các cuộc họp mới đây giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã mở ra một giai đoạn tương đối yên tĩnh. Cả hai nước đều có vẻ mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương tốt hơn, và việc cải thiện trong quan hệ Trung- Việt có vẻ không có khả năng gây tổn hại mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, bất cứ khi nào Trung Quốc hoặc Mỹ rung sợi dây mạnh bạo hơn, Việt Nam cảm thấy mình đang ở một vị trí bấp bênh hơn, không biết đầu dây nào là điểm tựa an toàn nhất. Nếu chính phủ Việt Nam muốn tiếp tục đứng thẳng thì phải tránh liên kết quá chặt với nước này mà buông lơi mối quan hệ với nước kia.

Việt Nam hiện đang ở một thời điểm tương đối độc đáo trong lịch sử của mình. Đất nước thống nhất, và có đủ tiền đề kinh tế và chính trị để giữ một vai trò quan trọng trong khu vực. Nhưng sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đều có thể báo trước nhiều thời kỳ rắc rối hơn trước mặt. Và như tuyên bố của một nhà ngoại giao Việt Nam, ‘Không ai nói ra một cách công khai, nhưng cái lôi kéo mỗi cuộc họp ở Đông Nam Á bây giờ là nỗi sợ hãi về việc khu vực sẽ như thế nào với sự khống chế của Trung Quốc’.

Dennis C McCornac là Giám đốc về các vấn đề toàn cầu tại Đại học Loyola Maryland. Ông chuyên về kinh tế và có hơn 20 năm kinh nghiệm sống ở Nhật Bản và Việt Nam.

Nguồn: East Asian Forum

Tiếng Việt: http://basam.info/2013/10/13/2065-chinh-sach-doi-ngoai-du-day-cua-viet-nam/
0

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông và thực trạng khai thác – cơ hội hay thách thức?

(NCBĐ-27/9/2013) Hoạt động khai thác và sản xuất ngoài khơi (offshore E&P) ở Biển Đông đang phát triển, nhờ vào tiềm năng dầu khí ở các vùng biển sâu trong khu vực và nhu cầu năng lượng tăng cao của Châu Á. Tuy nhiên, Biển Đông cũng mang lại nhiều thách thức chủ yếu dưới dạng các tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philippin.

Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông (đã xác định và tiềm năng), tính theo triệu thùng quy dầu (Mmboe).

Nguồn: Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA)

Sự tăng trưởng kinh tế của Châu Á thúc đẩy nhu cầu phát triển sản xuất dầu khí ở Biển Đông. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ dự báo nhu cầu nhiên liệu hóa lỏng và khí hàng năm của khu vực sẽ tăng lần lượt là 2,6%/năm và 3,9%/năm trong thập kỷ tới. Đặc biệt là Trung Quốc, với mục tiêu tăng mạnh lượng tiêu thụ khí tự nhiên trước năm 2020, coi Biển Đông, là khu vực trọng tâm, nơi có nhiều tiềm năng trong việc tìm ra các mỏ khí mới.

Hầu hết các hoạt động dầu khí ngoài khơi ở Biển Đông diễn ra gần bờ, tuy nhiên Trung Quốc đang dần dần di chuyển ra những vùng nước sâu hơn, đặc biệt là khu vực lưu vực cửa sông Châu Giang (Pearl River Mouth). Tuy vậy, tiềm năng để phát triển hơn nữa các hoạt động khai thác biển sâu của khu vực đã bị đẩy lên cao bởi các tranh chấp biên giới nêu trên.

Các khu vực chính nằm trong khu vực tranh chấp gồm có Quần đảo Trường Sa (tổng diện tích đất khoảng xấp xỉ 3 dặm2/7,8 km2) và một nhóm các đảo nhỏ bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa, đảo Đông Sa và Bãi cạn Scarborough. Các yêu sách của Trung Quốc đối với những hòn đảo này dựa trên các chuyến thám hiểm lịch sử và một bản đồ chính thức có in đường đứt khúc chín đoạn được xuất bản vào năm 1947. Việt Nam cũng có yêu sách với Quần đảo Hoàng Sa và Trưởng Sa, và vào năm 1956, Philippin đã yêu sách Bãi cạn Scarborough và một phần của quần đảo Trường Sa.

Sản lượng hiện tại

Hầu hết các hoạt động xa bờ đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia. CNOOC là tập đoàn dầu khí của Trung Quốc có hoạt động mạnh nhất trong khu vực Biển Đông và tập đoàn này đang hợp tác với Husky ở mỏ khí Liwan (Liwan gas field) với trữ lượng đã được xác định và tiềm năng vào khoảng 4-6 tỷ feet khối.

Việc các mỏ trong nước như Duri và Minas đang dần cạn kiệt, tập đoàn dầu khí PT Pertamina của Indonesia đang hy vọng gia tăng sản lượng dựa vào những hợp đồng mới ở Biển Đông. Những hợp đồng đó bao gồm lô D-Alpha của Natuna và các lô trong bể Nam Côn Sơn của Việt Nam.

Bể Palawan là nguồn chính cho nhu cầu khí nội địa của Philippin. Dàn khoan Malampaya hoạt động trong khu vực này được điều hành bởi Shell trong một hợp tác với Chevron và Tập đoàn Dầu mỏ Quốc gia Philippin.

Mỏ dầu lớn nhất của Thái Lan là mỏ Benjamas của Chevron ở phía bắc của bể Pattani. Đồng thời, bể này cũng là nơi có sản lượng khí lớn nhất của Thái Lan tại Bongkot cùng với Tập đoàn BG.

PetroVietnam đã hợp tác với một số công ty nước ngoài để phát triển những mở ngoài khơi. Chevron hiện đang thực hiện các hợp đồng lớn ở bể Cửu Long và bể Phú Khánh. Những nhà đầu tư lớn khác gồm có Eni, ConocoPhillips, và Perenco – một công ty tư nhân của Pháp.

Singapore cũng đặt mục tiêu tham gia vào Biển Đông và đã nhận được quyền thăm dò các lô ở Vịnh Thái Lan, bể Cửa Sông Châu Giang (Pearl River Mouth), và ngoài khơi Indonesia.

Mỏ dầu khí lớn nhất của Brunei là mỏ Champion, trong khi đó, mỏ Tây Nam Ampa đóng góp phần lớn tổng sản lượng khí của nước này.

Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc

Hiện tại, các hoạt động khai thác ngoài khơi của Trung Quốc đóng góp 15% cho tổng sản lượng dầu khí của nước này. Tuy nhiên, theo Paul Aston ở Holman Fenwick Willan Singapore, Trung Quốc tỏ ra cứng rắn đối với Biển Đông vì trữ lượng dầu khí trên cạn của nước này đang bắt đầu cạn kiệt. Một phần ba trữ lượng hiện tại của nước này là ở ngoài khơi, và trong đó, 33% là ở khu vực Biển Đông và hầu hết là nằm trong khu vực nước sâu. Aston vừa mới trở về Singapore sau bốn năm ở Thượng Hải. Ông này cho rằng sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu mỏ nước ngoài tăng 56,3% trong năm ngoái, và phụ thuộc của nước này vào khí tự nhiên nhập khẩu tăng 21,5%. Aston nhận định thêm: Trung Quốc sẽ tiếp tục là một nhà nhập khẩu lớn, dù có hay không có Biển Đông. Tính đến năm 2030, nhu cầu cho nhiên liệu hóa lỏng của Trung Quốc sẽ tăng 70%, và nước này được dự báo sẽ nhập khẩu 75% lượng nhiên liệu đó.

 “Trung Quốc không phải chỉ quan tâm đến Biển Đông. Họ muốn trở thành một người chơi chính trong các hoạt động ngoài khơi,” Aston nói thêm. “Họ đang cạnh tranh với Keppel, Jurong và Daewoo để trở thành một nhà thầu xây dựng dàn khoan lớn, không phải chỉ đối với các tập đoàn của Trung Quốc mà với tất cả các công ty trên thế giới. Có nhiều quan điểm cho rằng Trung Quốc luôn có vấn đề về chất lượng nhưng 20 năm trước người ta cũng đã nói rằng người Hàn Quốc không thể đóng tàu LNG, và bây giờ họ đang đóng tới 85% loại tàu này. Trung Quốc đang xây dựng các dàn khoan. Họ đang đóng các loại tàu chuyên chở hạng nặng, tàu lắp ống dẫn và các loại tàu hỗ trợ lặn – mọi thứ cần thiết để vận hành như một nhà thầu EPC nhằm cạnh tranh với các tập đoàn như McDermott, SapuraClough, và Technip.”

 

Đường chín đoạn là đường Trung Quốc sử dụng để phân định yêu sách lãnh thổ và vùng biển ở Biển Đông

Nguồn: Viện Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược Anh (IISS)

 

Theo nhà phân tích người Mỹ Gabe Collins thuộc China Signpost, Trung Quốc hiện chưa thể bắt kịp được với trình độ chuyên môn trong hoạt động ở vùng biển sâu của các tập đoàn dầu khí lớn phương Tây. Ông này cũng dự đoán rằng Trung Quốc sẽ mời các đối tác nước ngoài vào để giúp phát triển nguồn tài nguyên biển sâu của khu vực, và những tập đoàn dầu mỏ lớn với nhiều lợi ích ở Trung Quốc sẽ ít có khả năng hợp tác với các nước khác chẳng hạn như Việt Nam để phát triển ở các mỏ đang tranh chấp nếu điều đó làm hỏng quan hệ giữa họ với Trung Quốc. Tuy nhiên, ông này cũng nhận định rằng, hoạt động ở những khu vực có tranh chấp là bản chất của nền công nghiệp dầu khí. “Hãy nghĩ đến những nơi như Iraq,” ông ấy nói. “Hay những khu vực như Nigeria hay Nam Sudan. Các tập đoàn dầu mỏ sẽ chấp nhận đi vào cả những môi trường có nhiều xung đột nếu họ tin rằng ở đó có dầu mỏ.”

Các ước tính về trữ lượng

EIA ước tính có khoảng xấp xỉ 11 tỉ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên đã được xác định và có tiềm năng trong khu vực trải dài từ Singapore và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan. Hầu hết các mỏ hydrocarbon đều nằm ngoài khu vực tranh chấp.

Tuy nhiên, EIA thừa nhận rằng việc đưa ra một ước tính chính xác là rất khó vì khu vực này hiện chưa được thực hiện thăm dò đầy đủ và vì tình trạng tranh chấp lãnh thổ kéo dài ở đây. Khu vực tranh chấp ở Quần đảo Trường Sa gần như không có trữ lượng dầu mỏ xác định hoặc tiềm năng và có nguồn tin cho rằng khu vực này chỉ có khoảng gần 100 tỷ feet khối khí tự nhiên.

Tuy nhiên, một phân tích vào năm 2010 của Cơ quan Khảo sát Địa chấn Mỹ đưa ra ước tính có khoảng 0,8-5,4 tỷ thùng dầu và khoảng 7,6-55,1 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên nằm trong lượng tài nguyên chưa được phát hiện.

Khu vực Quần đảo Hoàng Sa tranh chấp không cho thấy dấu hiệu nào của các mỏ dầu khí lớn truyền thống , và bằng chứng địa chất cho thấy khu vực này cũng không có tiềm năng đáng kể. Tuy vậy, khu vực này lại có thể có một nguồn tài nguyên băng cháy lớn.

Børre Gunnerud, cộng tác viên ở Wikborg, Rein & Co., nhận định rằng, giống như những ước tính về trữ lượng ở phía Bắc Biển Đông, ước tính khoảng 10 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên trong vùng biển tranh chấp rộng 27.000 km2 (10.425 dặm2) giữa Thái Lan và Campuchia nên được xem xét cẩn thận. Gunnerud đã làm cố vấn cho Cơ quan Dầu khí Quốc gia Campuchia (CNPA) trong nhiều năm về khu vực yêu sách chồng lấn ở Vịnh Thái Lan.

 “Có rất ít thông tin,” bà nói. “Các con số đều chỉ mang tính phác họa.”

Địa chất vùng này bị phân mảnh rất nhiều và tỷ lệ phục hồi thành công có thể chỉ ở mức 10%.

Cơ quan Khảo sát Địa chấn Mỹ cũng ghi nhận sự phức tạp trong lịch sử kiến tạo của khu vực Đông Nam Á. Nó bao gồm sự đứt gãy và suy giảm lớp vỏ lục địa, sự đóng mở của các lưu vực đại dương, sự phát triển của hệ thống đứt gãy trong khu vực và những phần nâng lên cục bộ. Các hệ thống dầu khí nằm chủ yếu ở lưu vực Cenozoic và khí tự nhiên được tập trung trong các bể carbonate trẻ đàn hồi sau rạn nứt.

EIA dự báo dự trữ khí đốt sẽ có nhiều tiềm năng hơn so với dự trữ dầu mỏ ở Biển Đông. Tuy vậy, các công ty dầu khí sẽ phải xây dựng hệ thế đường ống ngầm dưới biển trong khu vực có nhiều thung lũng chìm và dòng chảy mạnh trong vùng nước sâu. Khu vực này cũng dễ bị bão nên không thể sử dụng dàn khoan sản xuất rẻ hơn với mũi khoan cứng. Một cách để xử lý vấn đề có thể là sử dụng mũi khoan kiểm soát áp lực để hoạt động trong môi trường nước sâu áp suất lớn.

Chuyên gia tư vấn năng lượng Wood Mackenzie đưa ra dự báo chỉ có khoảng 2,5 tỷ thùng quy dầu ở Biển Đông, và vào tháng 11/2012, CNOOC ước tính có khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên nằm trong khu vực chưa được phát hiện.

EIA chỉ ra tính nhạy cảm của khu vực đối với thương mại toàn cầu. Theo dữ liệu từ Lloyd's List Intelligence và GTIS Global Trade Atlas, mỗi ngày có khoảng 14 triệu thùng dầu thô được đi qua khu vực Biển Đông và Vịnh Thái Lan, tương đương 1/3 lượng dầu trung chuyển trên toàn cầu. Theo thông tin từ PFC Energy và Cedigaz, có khoảng 6 nghìn tỷ feet khối khí hóa lỏng, trên một nửa lượng buôn bán khí hóa lỏng toàn cầu, được vận chuyển qua Biển Đông trong năm 2011.

Kinh doanh như thường lệ

Theo Nick Haslam, Giám đốc điều hành Văn phòng Singapore của London Offshore Consultants, bất chấp những căng thẳng và bất ổn, nhiều dự án phát triển các khu vực rộng lớn vẫn được triển khai ở Biển Đông.

 “Cũng có một số vị trí nhỏ không có hoạt động – ví dụ như Vịnh Thái Lan, nơi có rất ít hoạt động đang diễn ra trong thời điểm hiện tại, nhưng nhìn tổng thể, khu vực này có thể ví như một tổ ong với rất nhiều dự án đang diễn ra. Nếu cộng tất cả lại, giá trị các dự án dầu khí ở khu vực Biển Đông có thể vượt con số 26 tỷ USD.”

Bán đảo Mã Lai, Đông Malaysia, Việt Nam, và Indonesia là những khu vực tập trung nhiều dự án nhất. Haslam cho rằng rất khó để xác định chắc chắn trữ lượng trong khu vực nhưng đây rõ ràng là một khu vực tập trung nhiều nhất các dự án. Chính số lượng các dự án đang thực thi và sắp tới ở những khu vực như Đông Malaysia, bán đảo Mã Lai, và ngoài khơi Việt Nam là minh chứng cho nhận xét này.

 “Brunei là một lãnh thổ cần theo sát,” Haslam nói. “Trong lịch sử, Shell đã từng hoạt động độc quyền một các hiệu quả trên tất cả các giếng dầu của Brunei. Nhưng mọi chuyện chắc chắn đang thay đổi. Nước này có vẻ như muốn tiếp cận những tập đoàn năng lượng lớn khác. Chẳng hạn như Total đã từng tiếp cận chúng tôi để cung cấp các dịch vụ bảo hành cho hoạt động về phía Tây Bắc Brunei.”

CNOOC dự kiến sẽ có khoảng 10 mỏ dầu khí ngoài khơi đi vào hoạt động trong năm nay, trong đó mỏ khí đốt Liwan 3-1 sẽ là mỏ khí tự nhiên nước sâu lớn đầu tiên ở ngoài khơi của Trung Quốc. Việc khai thác khí ở Liwan lần đầu tiên được dự kiến sẽ diễn ra vào khoảng cuối năm 2013 và đầu năm 2014. Liwan có trữ lượng xác định và tiềm năng ước tính ở vào khoảng 4-6 nghìn tỉ feet khối. Dự án Liwan nằm ở lô 29/26.300 km (186 dặm) về phía Đông Nam Hông Kông ở Biển Đông và trải rộng 979.773 héc-ta (3.965 km2). Husky Energy sẽ điều hành hoạt động và nắm giữ 49% lợi nhuận; CNOOC giữ 51% còn lại. CNOOC nắm giữ cổ phần ít nhất 51% tại tất cả các dự án ngoài khơi của Trung Quốc.table 

Ước tính trữ lượng dầu khí đã xác định và tiềm năng ở Biển Đông

Quốc gia

Trữ lượng dầu thô và hóa lỏng (tỷ thùng)

Trữ lượng khí tự nhiên (nghìn tỷ feet khối)

Brunei

1,5

15

Trung Quốc

1,3

15

Indonesia

0,3

55

Malaysia

5,0

80

Philippin

0,2

4

Thái Lan

-

1

Việt Nam

3,0

20

 Ghi chú: Trữ lượng không bao gồm trữ lượng trên cạn và ở vịnh Thái Lan. Giá trị trữ lượng ước tính dựa trên quyền sở hữu các mỏ dầu.

Nguồn: Báo cáo Biển Đông tháng 02/2013, EIA

 

Thêm vào đó, CNOOC sẽ khoan khoảng 140 giếng thăm dò, thu thập xấp xỉ 15.400km (9.571 dặm) dữ liệu địa chấn 2D và 24.800 km2 (9.575 dặm2) dữ liệu địa chấn 3D, và sẽ tiếp tục mở rộng các hoạt động thăm dò nước sâu. Tổng đầu tư cho các hoạt động là khoảng hơn 20 tỷ USD. Tháng 06/2012, CNOOC chào thầu 09 lô dầu khí ở khu vực Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở bể Jianna và Wan’an. Theo EIA, chưa có bất kỳ tập đoàn nước ngoài nào thực hiện chào giá.

Chevron nhận được một khu vực mới ở Biển Đông trong năm 2012 thông qua một vụ mua bán ở lô 15/10 và 15/28 ở khu vực nước sâu trong một hợp đồng chia sẻ sản xuất với CNOOC. Tập đoàn cũng quan tâm đến lô nước sâu 42/05, có diện tích thăm dò khoảng xấp xỉ 1,3 triệu héc-ta (5.216 km2), không nằm trong vùng biển tranh chấp.

Eni đã xuất hiện ở Trung Quốc kể từ năm 1980 và có khoảng 10 hợp đồng ở đây. Tập đoàn này ký một hợp đồng chia sẻ sản xuất với CNOOC vào năm 2012 để thăm dò lô 30/27 ở vào khoảng 400km (248 dặm) ngoài khơi bờ biển Hồng Kông. Lô này có diện tích khoảng 5.130 km2 (1.981 dặm2) nằm ở một trong những khu vực nhiều tiềm năng nhất của lĩnh vực khai thác ngoài khơi của Trung Quốc.

Một môi trường đang biến động

 “Chúng tôi liên tục đánh giá những cơ hội mới trong khu vực,” Ron Morris, Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí ROC ở Trung Quốc nói. “Trong một số trường hợp, các tranh chấp biên giới đã ảnh hưởng đến việc theo đuổi và nắm giữ những cơ hội mới, nhưng ROC đang có một kế hoạch quay vòng 20 năm vì thế chúng tôi liên tục xem xét tất cả các lô. Trung Quốc có một môi trường luôn thay đổi. Nó thay đổi hàng năm, hàng tháng nếu không muốn nói là hàng ngày.”

 

ROC nắm giữ 19,6% cổ phần trong Dự án ở Vịnh Bắc Bộ, nơi vừa thu sản lượng đầu tiên vào tháng 3. Các đối tác khác bao gồm Horizon Oil, 26,95%; CNOOC, 51%; và Oil Australia (Majuko Corp), 2.45%. Giai đoạn một của dự án là khai thác dầu mỏ từ mỏ Weizhou 6-12 Bắc và 12-8 Tây ở lô 22/12, khoảng 60 km (37 dặm) từ bờ biển phía nam Trung Quốc, tiếp nối với tổ hợp mỏ W12-1 của CNOOC. Dự án bao gồm việc xây dựng một dàn khoan xử lý theo mục đích và hai dàn khai thác thuộc sở hữu chung trong 30 m (98 feet) nước và tích hợp với cơ sở hạ tầng sẵn có của CNOOC.

Đi cùng với tin tức về việc bắt đầu sản xuất là sự xác nhận rằng kết quả của ba giếng khoan thăm dò/thẩm định ở khu vực WZ6-12 Bắc và Nam trong năm 2012 đã khiến độ chắc chắn về trữ lượng ở một số bể chứa tăng cao, cũng như bổ sung về việc tìm ra những bể mới ở WZ6-12N và Sliver. Kết quả của nó là việc tổng trữ lượng được xác định và tiềm năng tăng thêm 25%. Sau khi hoàn tất, tổng cộng 10 giếng khoan ở dàn khoan WZ6-12 sẽ được kết nối với hệ thống khai thác, so với chỉ năm giếng theo như trong kế hoạch phát triển cũ. Việc khai thác sẽ tăng dần trong năm khi việc xây dựng giếng khoan được hoàn tất và bắt đầu khai thác. Cuối cùng, dàn khoan mới sẽ cho phép CNOOC khởi động những mỏ cận biên khác trong khu vực.

 

Dự án Vịnh Bắc Bộ bao gồm việc xây dựng một dàn khoan xử lý theo mục đích (PUQB) thuộc sở hữu chung. Dàn khoan mới này sẽ cho phép CNOOC khởi động các mỏ cận biên họ có trong khu vực này.

Nguồn: Tin từ Tập đoàn Dầu khí ROC.

 

Đối với Morris, dự án đã đạt được thành công ở nhiều cấp. Trước đây đã từng tồn tại những thách thức về kỹ thuật. Tính chất địa chất của cả hai mỏ và tính chất dầu thô là rất khác biệt và khó. Thêm vào đó, W12-8W chỉ có thể được tiếp cận bằng mũi khoan thẳng đứng bên trên một lớp nước và bên dưới một tầng khí.

Morris cho rằng điều kiện trên sẽ không có hiệu quả về mặt kinh tế nếu suy nghĩ theo cách truyền thống. Vì thế, dự án này là một cột mốc quan trọng trong đó các bên bắt buộc phải hợp tác để giảm thiểu chi phí dự án và chia sẻ những cơ sở hạ tầng có sẵn.

 “Chúng tôi đã cùng với CNOOC đội chung một cái mũ và suy nghĩ làm sao để triển khai dự án như thể chúng tôi là một công ty,” Morris nói. “Với lối tư duy về quản lý khác nhau, việc này đã mất khá nhiều thời gian.”

Theo Morris, đó là một kiểu hợp tác chưa từng xảy ra ở Trung Quốc trước đây, và nó đã giúp làm giảm một nửa chi phí vốn và điều hành của dự án.

Ví dụ, sự phối hợp đã được thể hiện qua việc cho phép nước sản xuất chảy vào giếng xử lý nước hiện tại của CNOOC.

Thông thường, các liên doanh ở Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở độc lập, với một công ty tự khai thác một mình và xuất khẩu thông qua hệ thống xuất khẩu của họ. Vì thế, đối với dự án này, bản hợp đồng chuẩn đã được soạn lại sao cho CNOOC được đền bù xứng đáng cho những tài sản hiện có của họ, và việc phối hợp vận hành được điều chỉnh lại để phù hợp với lợi ích của tất cả các đối tác.

Một vài rào cản truyền thống đã được loại bỏ để đạt được một kết quả có lợi (win-win) cho tất cả các bên.

Sự cố tràn dầu ở Penglai 19-3 của ConocoPhillips ở Vịnh Bột Hải, phía bắc Trung Quốc, đã gây ra một sự đình trệ lớn khi tất cả các bên phải đánh giá lại các rủi ro.

 Morris cho rằng, “Nó đã ảnh hưởng đến tất cả mọi người”.

Do sự cố tràn dầu, công ty của ông ấy, ROC, đã phải trì hoãn nhiều tháng việc tất toán dự án.

 “Tôi tin rằng chúng ta chưa nhìn thấy hết những ảnh hưởng của nó. Trung Quốc chắc chắn đang thay đổi cái cách mà họ nhìn nhận về trách nhiệm doanh nghiệp và đang đặt ra những quy định mới để đảm bảo những cơ chế quản lý thích hợp được thực thi,” Morris nói.

Trung Quốc là một thị trường quan trọng của ROC, và Morris tỏ ra lạc quan về nền tảng hợp tác với CNOOC cho đến thời điểm hiện tại. Tuy ông ấy cho rằng khả năng tìm ra những mỏ dầu lớn trong vùng nước cạn ngoài khơi bờ biển Trung Quốc là ít khả năng, một bên chơi tầm trung như ROC cần phải tận dụng cơ hội thu được lợi nhuận từ những mỏ đã già hoặc khó phát triển. Công ty sẽ thúc đẩy khả năng đã được kiểm nghiệm này như một dịch vụ có giá trị không chỉ đối với các công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc, mà với toàn bộ các nước Đông Nam Á.

Những thách thức mới

Ernst Meyer, Giám đốc khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương của DNV, cho rằng sẽ tồn tại những thách thức về kỹ thuật cho ngành công nghiệp này. Khí đốt đang dần dần trở nên được quan tâm nhiều hơn dầu mỏ, và cùng với đó, cần phải phát triển những năng lực mới . Ví dụ, một số kết quả tìm kiếm gần đây đã được phân loại là khí đốt chua hay có tỷ lệ CO2 cao. Việc tiến vào khai thác ở vùng nước sâu sẽ mang đến các thách thức về kỹ thuật, và quan trọng hơn có lẽ là những thách thức về độ an toàn.

 “Cơ chế quản lý ở khu vực chưa được phát triển đúng mức,” Meyer nhận định. “Mọi thứ sẽ vận hành tốt nếu như luật lệ dễ dàng và đơn giản, nhưng tôi nghĩ nếu không có những nhà quản lý thực sự độc lập ở Biển Đông, đó sẽ là một thách thức lớn để duy trì mức độ an toàn có thể chấp nhận được. Ở một vài quốc gia, các tập đoàn dầu khí quốc gia hoạt động như những nhà quản lý trong khi cũng có lợi ích từ nguồn tài nguyên việc khai thác chúng.”

Tuy nhiên, Meyer vẫn tin khu vực này sẽ hấp dẫn các tập đoàn dầu khí, đặc biệt là khi đem so sánh với các khu vực như Bắc Băng Dương, nơi mà chi phí dự án được dự đoán sẽ rất cao.

 Meyer cho rằng, “Nếu bạn được tiếp cận với những dự án tốt và thỏa thuận chia sẻ phát triển tốt ở khu vực phía Nam châu Á, và nếu bạn có thể giải quyết mọi vấn đề về chính trị và kỹ thuật, tôi cho rằng đó là một khu vực có thể đem lại lợi nhuận lớn hơn rất nhiều ở thời điểm hiện tại”.

Wendy Laursen là Biên tập viên của tạp chí Offshore. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang Offshore Magazine ngày 18/9/2013.

 Người dịch: Tuấn Việt

 Hiệu đính: Minh Ngọc



http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/3689-tru-luong-dau-khi-o-bien-dong-va-thuc-trang-khai-thac-co-hoi-hay-thach-thuc
0