Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quốc phòng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quốc phòng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021

Bộ Ngoại giao nói về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 gần biên giới Việt Nam

(Thanh Niên - 25/02/2021) Sau thông tin về việc Trung Quốc xây căn cứ tên lửa đất đối không ở tỉnh Quảng Tây, cách biên giới Việt Nam 20 km, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 tại Vân Nam.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo
0

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Đằng sau chiến lược chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình.


Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình. Trong những năm 1970, Trung Quốc tập trung phần lớn nỗ lực vào việc đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Bắc Biển Đông và gần với Trung Quốc.

Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng Đá Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 là động thái gây bất ngờ. Trong khi đó, điểm nổi bật của những năm 1990 là chiến lược “xâm chiếm từ từ”, mà kết quả đáng chú ý là các cấu trúc được xây dựng tạm thời trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa ở phía Nam Biển Đông. Năm 1999, Bắc Kinh bắt đầu tìm cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đối với các nước khác ở vùng biển này trong các tháng mùa Hè, thể hiện quyền kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với khu vực này.

Xu hướng này lên đến đỉnh điểm trong kỷ nguyên Tập Cận Bình, khi Trung Quốc có những hành vi ứng xử trơ trẽn theo kiểu nước lớn. Việc Trung Quốc quấy rối các tàu nước ngoài đang đánh bắt cá hay khai thác tài nguyên, và thậm chí còn lao thẳng vào những tàu này, đã trở nên phổ biến ở khu vực phía Nam “đường 9 đoạn” do chính Trung Quốc vạch ra.

Tất nhiên, Tập Cận Bình đã giám sát việc xây dựng ba căn cứ khá lớn trên các bãi đá nhân tạo, tạo điều kiện cho sự hiện diện lâu dài của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở khu vực phía Nam Biển Đông. Các động thái phản đối của cộng đồng quốc tế – bao gồm khiếu nại của các nước Đông Nam Á, phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đối với Trung Quốc và một loạt hoạt động tự do hàng hải của Mỹ – cũng không thể ngăn chặn các hành động nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.

Việc đạt được mục tiêu ở Biển Đông sẽ mang lại cho Bắc Kinh những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị và chiến lược. Họ sẽ có quyền ưu tiên đối với các nguồn tài nguyên trên biển như cá và các nguồn tài nguyên dưới đáy biển như dầu lửa, khí đốt và khoáng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể củng cố tính hợp pháp của mình bằng cách rêu rao với công chúng trong nước rằng Trung Quốc đã đánh bại các nỗ lực nước ngoài nhằm xâm chiếm lãnh thổ “của họ”. Và Trung Quốc sẽ cải thiện đáng kể vị thế chiến lược của mình trong khu vực.

Yêu sách của Trung Quốc mơ hồ một cách có chủ ý. Bắc Kinh từ chối lập quan điểm của mình theo các điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó Trung Quốc là một bên ký kết. Thay vào đó, họ vạch ra “đường 9 đoạn” và thường xuyên lặp lại tuyên bố về cái mà họ cho là chủ quyền không thể tranh cãi đối với tất cả các hòn đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận.

Xét tới những hành vi ứng xử thực tế của các quan chức Chính phủ Trung Quốc và các đội tàu đánh cá được huy động tham gia lực lượng quân sự của nước này ở Biển Đông, có thể thấy Bắc Kinh dường như đang cân nhắc coi phần lớn vùng biển này là lãnh hải của họ.

Theo UNCLOS, các tàu chiến nước ngoài được phép đi qua mà không gây hại tới các vùng lãnh hải của các nước, nhưng Trung Quốc thường xuyên lên án việc các tàu chiến Mỹ đi qua khu vực Biển Đông. Các hành động của Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh tin rằng nước này có quyền đưa ra các quy định ở Biển Đông, sở hữu các nguồn tài nguyên ở biển và ngăn chặn máy bay và tàu chiến nước ngoài.

Thành công của Trung Quốc bắt nguồn chủ yếu từ ba đặc điểm trong chính sách Biển Đông của nước này. Thứ nhất là ảnh hưởng đòn bẩy. Để đạt được các mục tiêu chính trị, Bắc Kinh đã lợi dụng ưu thế là một nước lớn mạnh hơn so với các đối thủ. Trung Quốc đã khai thác sức mạnh công nghiệp, đặc biệt là năng lực đóng tàu, để triển khai đến Biển Đông một lực lượng gồm các tàu chiến, tàu hải cảnh và máy bay quân sự đông đảo hơn bất kỳ nước nào có tuyên bố chủ quyền ở đây. Hơn nữa, Bắc Kinh thường xuyên kêu gọi các đội tàu đánh cá dân sự của mình, vốn hùng hậu nhất ở Biển Đông, thực hiện sứ mệnh hỗ trợ các mục tiêu chiến lược quốc gia.

Quan điểm của Bắc Kinh về các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc song phương, giữa Trung Quốc với một nước khác có yêu sách, và sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Trung Quốc lớn mạnh hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ nào có yêu sách và điều này tạo lợi thế cho họ trong các cuộc đàm phán. Bắc Kinh phản đối mạnh mẽ bất kỳ gợi ý nào về các cuộc đàm phán đa phương, vốn cho phép ít nhất hai nước có yêu sách phối hợp với nhau để đối trọng với Trung Quốc. Sự phụ thuộc của các nước trong khu vực vào thương mại và đầu tư của Trung Quốc đã đặt Bắc Kinh vào vị thế có thể yêu cầu các bên làm theo ý mình.

Ảnh hưởng của Trung Quốc thể hiện rõ trong việc Campuchia ngăn chặn những chỉ trích về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đã gây sức ép kinh tế đối với Philippines trước khi Tổng thống Duterte thể hiện ý định sẵn sàng đánh đổi cơ hội bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của nước mình để nhận thêm viện trợ kinh tế từ Bắc Kinh. Mặc dù là nước mạnh nhất trong số các quốc gia bị coi là đối thủ của Trung Quốc vì cũng có tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, nhưng Việt Nam lại phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc và do đó rơi vào những xung đột về lợi ích.

Đặc điểm thứ hai đóng góp vào thành công của Trung Quốc là những cam kết giả tạo. Mặc dù tham gia các hoạt động mang tính côn đồ ở Biển Đông, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn luôn cam kết tuân thủ nguyên tắc hòa bình, hài hòa và đạo đức. Bắc Kinh luôn tuyên bố rằng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và không xâm lược hay bắt nạt các nước khác, ngay cả khi là một siêu cường. Để chứng minh điều này, Bắc Kinh đã thể hiện sự ủng hộ đối với việc giảm bớt căng thẳng, ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và tham gia các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Những hành động này nhằm che đậy ý định thực sự của Trung Quốc và dẫn tới quan điểm lạc quan thiếu căn cứ rằng các ví dụ về hành vi ứng xử hung hăng của Trung Quốc là những hiện tượng bất thường, bị giới hạn trong một số trường hợp cụ thể hay do một bên nào đó thực hiện mà chưa được phép của Bắc Kinh. Sự nhìn nhận vấn đề theo hướng này sẽ làm gia tăng bất đồng giữa các nước trong khu vực về cách thức đối phó với Trung Quốc, tạo cơ hội cho Bắc Kinh gây chia rẽ và chinh phục các nước.

Tuy nhiên, cách giải thích thuyết phục hơn gồm hai ý. Một là, Bắc Kinh có lợi ích rõ ràng trong việc che giấu các hành động của mình dưới vỏ bọc nhân từ nhằm hạn chế sự hợp tác an ninh giữa các nước đang cảm thấy bị đe dọa và muốn chống lại Trung Quốc. Hai là, do tư tưởng văn hóa-chính trị truyền thống và quyết tâm cai trị, Trung Quốc cảm thấy sức ép buộc họ phải duy trì vai trò lãnh đạo hợp pháp của mình ở trong nước.

Điều này dẫn tới việc Chính phủ Trung Quốc khăng khăng cho rằng thế giới không có gì phải lo ngại về chính sách đối ngoại của họ, ngay cả khi sự bất an của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở trong nước đã thúc đẩy Bắc Kinh thể hiện các quan điểm dân tộc chủ nghĩa khiến căng thẳng với các nước khác gia tăng.

Do vậy, những sự bảo đảm mà Bắc Kinh đưa ra xét cho cùng đều không có cơ sở. DOC bao gồm các cam kết không đưa người đến sinh sống trên các cấu trúc địa hình hiện không có người ở và không tham gia các hoạt động gây căng thẳng hay làm leo thang xung đột, những điều mà Trung Quốc rõ ràng đã phớt lờ khi đổ cát lên các rạn san hô để xây dựng các căn cứ quân sự ở một khu vực rộng tới hơn 1.200 ha. Trong khi đó, các cuộc đàm phán về COC đã kéo dài 24 năm và Bắc Kinh vẫn phản đối những từ ngữ mà có thể vô hiệu hóa các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời thúc đẩy một điều khoản hạn chế các hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển Đông.

Các tàu thuyền của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn được nhiều nước chấp nhận về các hành vi chuyên nghiệp và an toàn theo quy định của Công ước quốc tế năm 1972 về việc ngăn chặn các vụ va chạm trên biển và Bộ quy tắc tránh va chạm ngoài ý muốn trên biển (CUES) năm 2014. Ví dụ điển hình là việc các quan chức Trung Quốc bác bỏ mọi hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông, ngay cả khi đối mặt với những thực tế phản ánh điều ngược lại như việc tàu Trung Quốc cắt đứt dây cáp của các tàu nước khác năm 2011.

Đặc điểm thứ ba là điều chỉnhcác hành vi hung hăng. Trung Quốc kiên trì thúc đẩy các lợi ích của nước này ở Biển Đông, gây phương hại đến lợi ích của các nước khác. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thận trọng lựa chọn địa điểm, thời điểm và phương thức gây áp lực để hạn chế tối đa các phản ứng trái ngược. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhận định chính xác rằng Mỹ sẽ không gây chiến với Trung Quốc để ngăn chặn việc nước này xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo đá chiếm đóng.

Việt Nam là nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bị thiệt hại nhiều nhất do các cuộc tấn công bạo lực của Trung Quốc. Việt Nam không có thỏa thuận hợp tác an ninh với Mỹ. Bắc Kinh đã lựa chọn tháng 4/2020, thời điểm đỉnh dịch, để đưa ra tuyên bố về cái mà các phương tiện truyền thông của nước này gọi là “động thái hành chính quan trọng” – thành lập hai quận mới ở Biển Đông, trong đó có một quận quản lý cả khu vực đảo Trung Sa, vốn trên thực tế là một đảo san hô chìm cách mặt biển từ 9-18 m.

Chính phủ Trung Quốc tổ chức lực lượng thành ba cấp độ để thực thi chính sách trên biển: tàu Hải quân PLA, tàu hải cảnh và các tàu đánh cá dân sự. Nhìn chung, Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng lực lượng ở cấp độ thấp nhất để hoàn thành nhiệm vụ nhằm giảm dần ấn tượng của các nước về họ như một nước chuyên bắt nạt. Ví dụ, trong những tháng gần đây, một loạt tàu đánh cá của Trung Quốc, tắt hết các hệ thống tiếp sóng vô tuyến và không tham gia đánh bắt cá, đã bao vây đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng trong một nỗ lực rõ ràng nhằm đe dọa Manila và buộc họ phải rút lui.

Chiến thuật đâm đụng phổ biến hiện nay của Trung Quốc ít có tính khiêu khích hơn so với việc nổ súng và thường tỏ ra hiệu quả trong việc giành chiến thắng trên biển. Thậm chí, các tàu Trung Quốc đã nhiều lần đe dọa đụng độ để xua đuổi các tàu chiến của Hải quân Mỹ. Việc Trung Quốc sử dụng tia laser để quấy nhiễu máy bay của các nước khác là một biểu hiện mới của hành vi ứng xử của Bắc Kinh. Các tia laser gây nguy hiểm cho các máy bay chứ không trực tiếp gây chết người.

Chính sách hiện nay của Trung Quốc là tiến hành và bác bỏ. Sau khi Hải quân Mỹ cáo buộc một tàu khu trục của Trung Quốc đã chiếu tia laser vào máy bay P-8 của Mỹ hồi tháng 2/2020 khi máy bay này đang bay qua không phận quốc tế trên biển Philippines, Bộ Quốc phòng Trung Quốc bác bỏ và cho rằng đó là một cáo buộc vô căn cứ. Vài ngày sau đó, tờ “Thời báo Hoàn cầu” trực thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng tải một bài viết, trong đó các chuyên gia quân sự Trung Quốc ủng hộ việc sử dụng tia laser để xua đuổi tàu chiến Mỹ khỏi khu vực Biển Đông.

Những đặc điểm này cũng được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cụ thể là việc cam kết ủng hộ hòa bình và công lý, lên tiếng bác bỏ các hành vi ứng xử mang tính côn đồ hay các chính sách làm tổn hại các nước khác, ủng hộ chiến thuật bầy đàn và tấn công bằng tia laser ở biển Hoa Đông, gây sức ép kinh tế và đe dọa trừng phạt các nước khác vì đã thách thức lập trường của Trung Quốc về các vấn đề như Đài Loan, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đặc quyền của Trung Quốc như một nước lớn, hay bắt giữ Giám đốc tài chính của tập đoàn Hoa Vi Mạnh Vãn Châu.

Việc thay đổi quỹ đạo trên Biển Đông đòi hỏi các nước trong khu vực sẽ phải nỗ lực hơn nữa để xác định liệu nguy cơ dài hạn của việc Trung Quốc sở hữu tuyến đường biển quan trọng này có vượt xa những rủi ro về kinh tế lẫn quân sự hay không và có lập trường mạnh mẽ hơn trong việc chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc.

Nếu được lựa chọn, Mỹ có thể đóng một vai trò quan trọng mang tính xây dựng bằng cách: một là đi đầu trong việc phản đối các hành động của Trung Quốc, vốn đi ngược lại UNCLOS và phán quyết của PCA năm 2016; và hai là nỗ lực xây dựng một giải pháp toàn diện đối với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông mà ít nhất sẽ thách thức và cô lập Trung Quốc, thay vì cho phép nước này chiếm ưu thế bằng cách lợi dụng sự lơ đễnh của cộng đồng quốc tế. Nếu không lựa chọn Mỹ, khu vực này hẳn là đang đánh cược rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng quyền kiểm soát đối với Biển Đông để thúc đẩy các lợi ích của mình và trừng phạt các đối thủ.

Bài viết của tác giả Denny Roy, nghiên cứu viên cao cấp, giám sát viên tại Chương trình học bổng Posco, Chương trình Nghiên cứu tại Trung tâm Đông-Tây. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

Úc và Ấn Độ ký kết thỏa thuận về việc cùng sử dụng căn cứ quân sự


Ấn Độ và Úc vào hôm nay 04/06/2020 đã ký một thỏa thuận cho phép hai bên sử dụng căn cứ quân sự của nhau vào việc hỗ trợ hậu cần. Hai bên đồng thời đồng ý tăng cường hợp tác ở vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương trong bối cảnh quan hệ của hai nước với Trung Quốc đang có dấu hiệu căng thẳng

Thỏa thuận liên quan đến việc “hỗ trợ hậu cần song phương - Mutual Logistics Support” đã được thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và đồng nhiệm Úc Scott Morrison ký kết trong một cuộc họp thượng đỉnh trực tuyến.

Thông cáo công bố sau cuộc họp nêu rõ: “Hai bên đồng ý tiếp tục thắt chặt và mở rộng hợp tác quốc phòng qua việc tăng cường quy mô và tính phức tạp các cuộc tập trận song phương và các hoạt động khác nhằm phát triển những hướng mới đối phó với những thách thức về an ninh mà hai bên cùng chia sẻ”.

Thỏa thuận này được ký trong bối cảnh tranh chấp Ấn -Trung về biên giới ở vùng Himalaya nổi cộm trở lại và quan hệ Canberra-Bắc Kinh cũng bị khuấy động sau khi Úc kêu gọi mở điều tra quốc tế về vụ virus corona xuất phát từ Vũ Hán.

Riêng về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, hai bên đã nhắc lại cam kết thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng ở một khu vực rộng lớn mà cả Ấn Độ lẫn Úc đều nhấn mạnh là rất quan trọng đối với thế giới.

Tuyên bố chung về tầm nhìn trên vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương

Một tuyên bố chung về tầm nhìn chung của hai quốc gia về hợp tác hàng hải ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương nêu rõ : "Ấn Độ và Úc có mối quan tâm lâu dài đối với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do, cởi mở", không loại trừ bất kỳ nước nào và vận hành trên tinh thần tôn trọng luật lệ quốc tế.

Hai bên đã khẳng định cùng quan tâm đến việc " bảo đảm tự do hàng hải và hàng không trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương".

Theo giới quan sát, tuyên bố về hợp tác hàng hải Ấn Độ-Úc đã gián tiếp đề cập đến Trung Quốc và các hành động quyết đoán của Bắc Kinh tại vùng Biển Đông.

Trung Quốc phản đối Mỹ về Biển Đông

Liên quan đến Biển Đông, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên vào hôm qua, 03/06, đã tiếp tục nhắc lại các luận điểm về "chủ quyền lãnh thổ lịch sử" của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Đây là phản ứng của Trung Quốc chống lại việc Mỹ vừa gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông.


Nguồn: http://www.rfi.fr/vi/ch%C3%A2u-%C3%A1/20200604-u%CC%81c-va%CC%80-%C3%A2%CC%81n-%C4%91%C3%B4%CC%A3-ky%CC%81-k%C3%AA%CC%81t-tho%CC%89a-thu%C3%A2%CC%A3n-v%C3%AA%CC%80-vi%C3%AA%CC%A3c-cu%CC%80ng-s%C6%B0%CC%89-du%CC%A3ng-c%C4%83n-c%C6%B0%CC%81-qu%C3%A2n-s%C6%B0%CC%A3
0

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Trung Quốc lập ADIZ ở Biển Đông: Việt Nam cẩn thận

Trung Quốc đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) Biển Đông bao gồm các đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 2010 và chỉ chờ giải quyết xong các vấn đề về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao để tuyên bố với thế giới, nguồn tin từ Quân giải phóng nhân dân PLA cho biết.

Theo các chuyên gia, nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước (trong đó có Việt Nam) sẽ buộc phải lựa chọn, không chỉ là chơi với ai giữa Mỹ hay Trung Quốc, mà còn là giải quyết mâu thuẫn mối quan hệ kinh tế giữa các nươc này với Trung Quốc cùng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia của chính mình.

Lộ tin Trung Quốc đã lập xong kế hoạch ADIZ ở Biển Đông từ lâu

Bắc Kinh đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông kể từ năm 2010. Cũng trong năm đó, Trung Quốc cho biết họ đang xem xét việc đưa ra các biện pháp kiểm soát không phận tương tự trên Biển Đông, một động thái bị chỉ trích rộng rãi trên toàn thế giới. Bài phân tích của tác giả Minnie Chan đăng trên tờ Bưu điện Nam Hoa Buổi sáng ngày 31/5 cho biết.

ADIZ dự kiến bao gồm các chuỗi đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa (của Việt Nam), theo một nguồn tin từ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nguồn tin cho SCMP biết thêm rằng chính quyền Trung Quốc đang chờ thời điểm thích hợp để công bố về kế hoạch này.

Trong khi Bắc Kinh có thể giữ kín về vấn đề này, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết vào ngày 4 tháng 5 rằng họ đã biết về các kế hoạch của Trung Quốc Đại lục.

Một Vùng nhận dạng phòng không là không phận trên một khu vực không thể tranh cãi về đất hoặc nước, trong đó việc giám sát và kiểm soát máy bay ra vào được thực hiện vì lợi ích của an ninh quốc gia. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi như khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Trong khi nhiều quốc gia có ADIZ, khái niệm này không được xác định hoặc quy định bởi bất kỳ điều ước hoặc cơ quan quốc tế nào.

Giới quan sát quân sự cho biết thông báo về ADIZ tiếp theo của Trung Quốc sẽ làm gia tăng căng thẳng với Hoa Kỳ và có thể gây ra tổn hại không thể khắc phục đối với mối quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Lu Li-Shih, cựu giảng viên của Học viện Hải quân Đài Loan tại Cao Hùng, nói rằng việc xây dựng và phát triển các đảo nhân tạo - đặc biệt là các đường băng và hệ thống radar được xây dựng trên các rạn san hô đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn - đã diễn ra trong nhiều năm qua là một phần trong kế hoạch ADIZ của Bắc Kinh.

“Hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã triển khai máy bay cảnh báo sớm KJ-500 và máy bay tuần tra chống ngầm KQ-200 tại đá Chữ Thập”, ông nói, đề cập đến những bức ảnh được chụp bởi ImageSat International của Israel và Sáng kiến ​​minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS).

Chuyên gia này cũng nói rõ ràng rằng các cơ sở có điều hòa không khí đang được xây dựng trên rạn san hô, cho thấy máy bay chiến đấu - cần được bảo vệ khỏi nhiệt độ cao, độ ẩm và độ mặn trong khu vực - cũng sẽ sớm được triển khai ở đó.

“Sau khi các tiêm kích chiến đấu PLA đến, chúng có thể tham gia cùng các máy bay cảnh báo sớm và máy bay chống ngầm để thực hiện hoạt động tuần tra trên ADIZ”, Lu Li-Shih nhận xét.

Ông Li Jie, một chuyên gia Hải quân làm việc tại Bắc Kinh và là sĩ quan cấp cao đã nghỉ hưu của PLA, nói rằng các nước thường chờ đợi để công bố thành lập ADIZ cho đến khi họ có thiết bị phát hiện cần thiết, cũng như đủ khả năng chiến đấu và cơ sở hạ tầng khác để quản lý nó.

“Nhưng nếu có thời cơ, Bắc Kinh có thể đưa ra thông báo sớm hơn”, sĩ quan cao cấp đã về hưu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc nói.

“Bắc Kinh đã tuyên bố về ADIZ ở Biển Hoa Đông ngay cả khi PLA chưa có khả năng phát hiện, theo dõi và trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập”, ông Li Jie khẳng định.


Vì sao Trung Quốc hoãn công bố ADIZ?

Một nguồn tin quân sự khác của Trung Quốc, người đề nghị giấu tên vì tính nhạy cảm của vấn đề, nói rằng cũng như công tác chuẩn bị, Bắc Kinh nhận thức rằng Biển Đông lớn hơn Biển Hoa Đông rất nhiều và do đó sẽ cần nguồn lực lớn hơn để tuần tra.

Theo chuyên gia Hải quân Li Jie, Bắc Kinh đã ngần ngại trong việc tuyên bố ADIZ ở Biển Đông do một số cân nhắc về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao.

“Nhưng vấn đề thực tế nhất là PLA trước đây không có khả năng giao tranh máy bay chiến đấu để trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập ở Biển Đông, nơi có diện tích gấp nhiều lần Biển Hoa Đông và chi phí phải trả để hỗ trợ ADIZ sẽ rất lớn”, nguồn tin cho biết.

Vào năm 2010, chính quyền Trung Quốc đã nói với phái đoàn Nhật Bản khi đó đến thăm Bắc Kinh rằng họ đang xem xét việc thành lập ADIZ trên Biển Hoa Đông. Theo báo cáo năm 2017 của CSIS, Bắc Kinh cho biết vấn đề này cần được thảo luận khi kế hoạch của họ chồng chéo với khu vực phòng không Nhật Bản.

Tin tức này đã gây phẫn nộ đối với Tokyo, khiến Nhật Bản phản ứng bằng cách thành lập một ADIZ cho riêng mình, bao gồm Quần đảo Senkaku - được biết đến với tên Quần đảo Điếu Ngư trong tiếng Quan Thoại.

Căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh leo thang sau khi Tokyo mua Senkaku từ một chủ sở hữu tư nhân vào tháng 9 năm 2012, khiến Bắc Kinh công bố ADIZ vào tháng 11 năm sau.

“Trung Quốc tuyên bố thành lập ADIZ đầu tiên sớm hơn dự định vì cần phải khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư”, ông Li nói.

Nhưng động thái này đã gặp phải phản ứng dữ dội, từ cả Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng như nhiều nước trong khu vực.

Trong khi quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã được cải thiện trong những năm gần đây, căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington vẫn đang gia tăng đều đặn, với việc hai bên đụng độ trên nhiều mặt trận - từ thương mại và công nghệ, đến các vấn đề quân sự và tư tưởng.

Mối quan hệ của hai bên còn chịu áp lực lớn hơn nữa do hậu quả của đại dịch Covid-19, khi các quan chức cấp cao đưa ra các cáo buộc và chỉ trích lẫn nhau về cách xử lý khủng hoảng và nguồn gốc của coronavirus.

Tháng trước, các máy bay quân sự của Mỹ, bao gồm các máy bay trinh sát EP-3E và RC-135U, đã thực hiện ít nhất 9 cuộc tập trận và hoạt động tuần tra trên Biển Đông, theo trang web theo dõi hàng không Aircraft Spots.

Trung Quốc đã tìm cách xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nước láng giềng Đông Nam Á trong những năm gần đây, nhưng Drew Thompson, một nghiên cứu viên cao cấp của Trường Chính sách công Lee Kuan Yew, Đại học Quốc gia Singapore, cho rằng sẽ chỉ có hại cho Trung Quốc nếu nước này tuyên bố Biển Đông là ADIZ thứ hai.

“Tuyên bố như vậy sẽ làm tổn hại nghiêm trọng mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á, thống nhất với nhau trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc, bao gồm việc cải tạo đất và quân sự hóa các đảo”, ông nói.

Nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước sẽ buộc phải lựa chọn, không phải giữa Mỹ và Trung Quốc, mà là giữa mối quan hệ kinh tế của họ với Trung Quốc và chủ quyền quốc gia của chính họ.

Việt Nam nêu lo ngại về diễn biến phức tạp ở Biển Đông gần đây

Trước đó, ngày 29/5, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Thứ trưởng Lê Hoài Trung đã tham dự Hội nghị trực tuyến với người đồng cấp Trung Quốc La Chiếu Huy nhằm trao đổi về các vấn đề quan hệ song phương, diễn biến phức tạp trên Biển Đông thời gian gần đây cũng như chiến lược phát triển quan hệ giữa Hà Nội – Bắc Kinh hậu Covid-19.

Đáng chú ý, tại Hội nghị lần này, hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc nhất trí tiếp tục trao đổi về phối hợp trong công tác quản lý biên giới trên đất liền và tổ chức hoạt động kỷ niệm 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc và 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền. Hai nước thống nhất tiến hành kiểm tra liên hợp biên giới theo quy định của Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Nghị định thư phân giới cắm mốc vào thời điểm thích hợp.


Lê Hoài Trung

Đối với tình hình căng thẳng trên vùng biển có tranh chấp thời gian gần đây giữa hai nước, Thứ trưởng Lê Hoài Trung cũng đã có trao đổi thẳng thắn với ông La Chiếu Huy.

Hai bên nhất trí cần tiếp tục phát huy vai trò của các cơ chế đàm phán hiện nay đạt kết quả thực chất. Thứ trưởng Lê Hoài Trung nêu những lo ngại của Việt Nam trước các diễn biến phức tạp gần đây tại Biển Đông, nêu ý kiến về những quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982.

Đồng chí Lê Hoài Trung đề nghị hai bên thúc đẩy hợp tác và giải quyết bất đồng theo tinh thần tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của nhau, thỏa thuận, nhận thức chung giữa hai bên và luật pháp quốc tế.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý trên Biển Đông

Trước đó, như đã thông tin, trả lời cử tri về tình hình Biển Đông và những hành động của Việt Nam ứng phó với diễn biến phức tạp trên Biển Đông, tại công văn số 580,581 Bộ Ngoại giao nêu rõ, mặc dù đã có nhiều biện pháp phản đối ngoại giao, Bộ nhận định vấn đề Biển Đông đang ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường.

Cụ thể, từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10 năm 2019, “dưới danh nghĩa khảo sát khoa học”, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vốn được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Theo Bộ Ngoại giao, trước những diễn biến phức tạp vừa quan trên Biển Đông, công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo liên tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt tinh thần kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam.

“Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta ở vùng biển này ngày càng trở nên cấp thiết, luôn là ưu tiên hàng đầu trong xây dựng chính sách đối ngoại cũng như trong quá trình xử lý các vấn đề của đất nước”, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh.

Bộ Ngoại giao cho biết Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, về cả an ninh - quốc phòng, chính trị - ngoại giao, kinh tế - xã hội… nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Việt Nam cũng thực hiện các hoạt động hợp tác thăm dò khai thác dầu khí của các doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động đánh bắt bình thường của ngư dân diễn ra trên các vùng biển thuộc Việt Nam.

Để phản đối các hành vi vi phạm chủ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan đã đấu tranh ngoại giao ở nhiều cấp, thông qua các kênh khác nhau bằng nhiều hình thức.

Việt Nam cũng tăng cường tiếp xúc, đối thoại, trao đổi, trao công hàm, giao thiệp phản đối. Các hoạt động này được tiến hành trong các dịp tiếp xúc và chuyến thăm cấp cao, hội đàm song phương, trao đổi bên lề các hội nghị quốc tế và diễn đàn đa phương hoặc trong khuôn khổ các cơ chế đàm phán về vẩn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý và hoạt động vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, không tiếp diễn hành động làm phức tạp tình hình, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là hoạt động quân sự hóa, cản trở các hoạt động phát triển kinh tế biển của Việt Nam.

“Lập trường và chính nghĩa của ta được nhiều nước trong và ngoài khu vực ủng hộ, ghi nhận. Đồng thời, nhiều nước cũng có tiếng nói mạnh mẽ phê phán các hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ta”, Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Trong một diễn biến liên quan, ngày 31/5, quyền Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Indonesia Teuku Faizasyah xác nhận, nước này đã chính thức gửi công hàm lên Liên hợp quốc (LHQ) bác bỏ yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông.

Theo đó, bản đồ Đường chín đoạn (đường lưỡi bò) hàm ý yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý quốc tế và điều này cũng có nghĩa là đã vi phạm Công ước về Luật Biển quốc tế 1982 (UNCLOS).

Indonesia tuyên bố, Chính phủ Indonesia không ủng hộ các yêu sách trái với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982 mà phía Trung Quốc đưa ra. Lập trường nhất quán của Indonesia là bác bỏ các yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Biển Đông.

Đường lưỡi bò hay đường chín đoạn mà Trung Quốc đưa ra trong yêu sách bao gồm hầu hết các khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bất chấp sự phản đối của nhiều bên, đầu năm 2020, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính để quản lý các đảo tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Điều này đã bị Việt Nam, Indonesia, Philippines, Hoa Kỳ cùng nhiều quốc gia lên án mạnh mẽ.


Nguồn: https://vn.sputniknews.com/vietnam/202006019098699-trung-quoc-lap-adiZ-o-bien-dong-viet-nam-can-than/
0

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9: Quả đấm thép của Hải quân Việt Nam

Sức mạnh của Hải quân Việt Nam không ngừng tăng lên sau khi được trang bị đội tàu hộ vệ tên lửa Gepard (gồm các tàu 016 Quang Trung, tàu 011 Đinh Tiên Hoàng, tàu 015 Trần Hưng Đạo) có sức tấn công lớn, hỏa lực mạnh vừa có thể tác chiến độc lập, vừa hiệp đồng chiến đấu tiêu diệt kẻ thù trên không, trên biển trong điều kiện hết sức khó khăn.

Tàu hộ vệ tên lửa Trần Hưng Đạo cập cảng Yokosuka, Nhật Bản năm 2018.

Làm chủ trang thiết bị tối tân, điều khiển tàu hộ vệ tên lửa Gepard

Trước yêu cầu đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, thời gian qua, Hải quân nhân dân Việt Nam đã được trang bị nhiều loại tàu chiến hiện đại, có sức tấn công lớn, trong đó phải kể đến đội tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9. Đây là tàu chiến đấu được sản xuất tại Nga, có thể hoạt động tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng không quân, tàu ngầm để tiêu diệt các mục tiêu trên không, trên biển, VOV đưa tin.

Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9 có khả năng tìm kiếm tiêu diệt tàu ngầm, tàu mặt nước, máy bay địch; ngoài ra tàu còn có khả năng thả thủy lôi, bảo vệ cho đoàn tàu vận tải và chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ.

Kể từ khi tiếp nhận những con tàu này từ Nga về Việt Nam, các cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn 162, Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân đã không ngừng học tập, nhanh chóng làm chủ các trang thiết bị, vũ khí hiện đại trên tàu, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ khi có lệnh.

Đại tá Nguyễn Thiên Quân, Lữ trưởng Lữ đoàn 162 cho biết, ngay sau khi 2 tàu hộ vệ tên lửa 011 Đinh Tiên Hoàng và 012 Lý Thái Tổ cập cảng Cam Ranh vào tháng 3 và tháng 8/2011, Lữ đoàn 162 được Quân chủng Hải quân giao nhiệm vụ quản lý, huấn luyện, khai thác, sử dụng làm chủ các vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại.

Hơn 6 năm sau (tháng 2/2017 và năm 2018), tàu 015 Trần Hưng Đạo và tàu 016 Quang Trung tiếp tục được biên chế về Lữ đoàn 162. Được Quân chủng Hải quân và Vùng 4 Hải quân tin tưởng giao quản lý, khai thác sử dụng các tàu hộ vệ tên lửa hiện đại bậc nhất hiện nay, đó là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn 162, song đó cũng là một trọng trách rất lớn.

Chính vì vậy, ngay sau khi tiếp nhận tàu, mỗi cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn luôn nỗ lực rèn luyện, học tập cùng chuyên gia Nga để nhanh chóng làm chủ các trang thiết bị hiện đại tối tân và làm chủ hoàn toàn con tàu.

Mặc dù dưới cái nắng như nung tại Quân cảng Cam Ranh những ngày tháng 8, nhưng các cán bộ chiến sĩ các tàu hộ vệ tên lửa của Lữ đoàn 162 vẫn miệt mài huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và các bảng bố trí chiến đấu, nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi có tình huống xảy ra.

Trung úy Nguyễn Văn Huy, Phó trưởng ngành – Tên lửa pháo, tàu 012 chia sẻ, không kể mưa hay nắng, ban ngày hay ban đêm, công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của tàu được tiến hành thường xuyên. Chính vì vậy, mỗi tiểu đội, mỗi ngành luôn phải tập trung, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. Để làm chủ được con tàu hiện đại này, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải trải qua một quá trình học tập, nghiên cứu không mệt mỏi để điều khiển con tàu ngày càng vững vàng vượt trùng khơi, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc.

Tàu hộ vệ tên lửa 011 Đinh Tiên Hoàng và 012 Lý Thái Tổ được Nga đóng theo đơn đặt hàng của Việt Nam. Tàu có chiều dài 102,4 m, rộng 13,7 m, lượng dãn nước toàn phần khoảng 2.100 tấn, tốc độ tối đa 29 hải lý/giờ, tầm hoạt động khoảng 5.000 hải lý, thời gian hoạt động liên tục trên biển 20 ngày đêm, có thể chịu được sóng gió cấp 10-12.

Sức mạnh tấn công khó lường của nhóm tàu chiến Hải quân Việt Nam

Trên tàu được trang bị hệ thống vũ khí tấn công như tên lửa chống tàu Uran-E (Kh35) có khả năng tiêu diệt các tàu mặt nước của đối phương từ xa ở cự ly đến 130 km; Tổ hợp pháo hạm đa năng AK – 176 có tốc độ bắn 60-120 phát/phút và tổ hợp pháo AK – 630 tốc độ bắn từ 4500 – 5000 phát/phút có thể tiêu diệt các mục tiêu trên biển, ven bờ và trên không; tổ hợp pháo – tên lửa phòng không đa năng (Palma); ống phóng ngư lôi, boong tàu có bãi đáp cho trực thăng chống ngầm…

Thiếu úy Hoàng Đình Tiệp- Trưởng ngành hàng hải, tàu 012 Lý Thái Tổ cho biết, so với các tàu mặt nước khác thì lớp tàu Gepard 3.9 có nhiều vũ khí trang thiết bị mới, sử dụng kỹ thuật số và công nghệ thông tin, bên cạnh đó tài liệu chủ yếu là tiếng Nga nên để vận hành thành thục và làm chủ con tàu, mỗi cán bộ chiến sĩ ở mỗi ngành, mỗi bộ phận của tàu đã phải nỗ lực rất nhiều. Tuy nhiên đến nay, anh và các cán bộ, thủy thủ ở mỗi vị trí đều đã đảm nhận tốt công việc của mình.

Trung tá Hoàng Anh, Thuyền trưởng tàu 016 – Quang Trung chia sẻ, mặc dù tàu mới được biên chế về Lữ đoàn 162 được hơn 1 năm, nhưng trong quá trình huấn luyện thực hiện nhiệm vụ, tàu Quang Trung luôn phối hợp, hiệp đồng tốt với các tàu khác trong lực lượng để triển khai các phương án tác chiến.

Những buổi diễn tập phối hợp hiệp đồng đã giúp cán bộ, thủy thủ tàu nâng cao trình độ, khả năng tác chiến và sẵn sàng chiến đấu cao. Bên cạnh đó tàu đã thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt là nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng. Chuyến thăm Liên bang Nga của tàu 016-Quang Trung mới đây với hải trình khoảng 4.600 hải lý có thể coi là một chuyến đi kỷ lục mới đối với các chiến hạm khác trong lực lượng.

Trong suốt hải trình đi và về qua các vùng biển Việt Nam, Trung Quốc, eo biển Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Liên bang Nga, mặc dù thời tiết phức tạp, sóng to gió lớn nhưng tàu đã đảm bảo tốt công tác tổ chức hành quân đúng thời gian, kế hoạch, bảo đảm an toàn tuyệt đối về mọi mặt. Cán bộ, thủy thủ Tàu 016-Quang Trung duy trì nghiêm túc công tác trực canh đi ca, trực quan sát, nhận dạng, đăng ký mục tiêu trên không, trên biển.

Đây là minh chứng cho quá trình rèn luyện, học tập không mệt mỏi của mỗi cán bộ thủy thủ tàu 016 – Quang Trung và làm chủ hoàn toàn con tàu hiện đại. Chuyến đi này cũng là minh chứng cho nước chủ nhà và Hải quân các nước thấy sự tinh nhuệ, chính quy và khả năng làm chủ vũ khí, thiết bị kỹ thuật, cũng như khả năng hoạt động độc lập xa căn cứ dài ngày của Hải quân Việt Nam.

Là đơn vị nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển đảo của Vùng 4 Hải quân, cũng là đơn vị có đội tàu chiến hùng mạnh, trước tình hình trên biển có nhiều diễn biến phức tạp, nhiệm vụ trên giao cho Lữ đoàn 162 ngày càng nặng nề. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, Đại tá Nguyễn Thiên Quân – Lữ trưởng Lữ đoàn 162 cho biết, Đảng ủy, Chỉ huy Lữ đoàn 162 đã tập trung huấn luyện chiến đấu, có nhiều đổi mới trong phương pháp huấn luyện để đạt kết quả cao nhất. Bên cạnh đó không ngừng giáo dục, xây dựng bồi đắp lòng trung thành, bản lĩnh, ý chí chiến đấu của cán bộ chiến sĩ trong toàn Lữ đoàn, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; bình tĩnh, tự tin giải quyết tốt các tình huống diễn ra trong quá trình tuần tra, tuần tiễu trên biển, bảo đảm đúng đối sách, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo được phân công quản lý.

Trong những năm qua, đội tàu hộ vệ tên lửa đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ như: việc độc lập thử tên lửa chống hạm, tổ chức huấn luyện đường dài, huấn luyện cất, hạ cánh trực thăng K28 trên tàu khi neo đậu và khi tàu đang hành trình, đặc biệt trong đợt diễn tập bắn đạn thật năm 2017, tàu 012 Lý Thái Tổ đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ bắn tên lửa, được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen.

Bên cạnh đó, đội tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9 còn tham gia các sự kiện đối ngoại quốc phòng ở nhiều quốc gia tại nhiều vùng biển khác nhau. Những hoạt động này đã giúp tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, phát triển với hải quân, quân đội và nhân dân các nước trên thế giới, khẳng định năng lực, vị thế của Hải quân nhân dân Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Các tàu hộ vệ tên lửa Gepard của Việt Nam đã lần lượt thực hiện các chuyến thăm lịch sử tới Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Năm 2016, tàu hộ vệ tên lửa Gepard 011 – Đinh Tiên Hoàng của Hải quân Việt Nam đã vượt gần 5.000 hải lý từ biển Đông qua eo biển Malacca tới Ấn Độ Dương để tham gia Lễ duyệt binh tàu hải quân quốc tế tại căn cứ hải quân Vishakhapatnam (Ấn Độ).

Năm 2018, tàu hộ vệ tên lửa Gepard 015 – Trần Hưng Đạo đã lập thêm một kỷ lục mới khi vượt qua hơn 5.000 hải lý đi thăm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Chuyến thăm Nga từ ngày 17/7-7/8/2019 của tàu 016 – Quang Trung với hải trình 4.600 hải lý. Các chuyến đi của đội tàu hộ vệ tên lửa, Lữ đoàn 162 không chỉ làm nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng mà còn góp phần đánh giá năng lực chỉ huy hiệp đồng, trình độ thao tác làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật của cán bộ thủy thủ.

Theo SPUTNIK
0

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2020

Việt Nam ra mắt tên lửa hành trình chống hạm VCM 01

Việt Nam đã bắt đầu sản xuất tên lửa hành trình chống hạm VCM 01 dựa theo thiết kế của loại tên lửa Uran E của Nga

Việt Nam đã bắt đầu sản xuất tên lửa hành trình chống hạm VCM 01 dựa theo thiết kế của loại tên lửa Uran E của Nga.

Theo truyền thông Việt Nam, tại nhà máy Z189 của Bộ Quốc phòng Việt Nam, việc sản xuất phiên bản riêng của hệ thống tên lửa chống hạm 3M24E "Uran-E" của Nga đã bắt đầu với tên gọi VCM-01. Các linh kiện điện tử dùng cho việc sản xuất tên lửa này sẽ được cung cấp bởi Tập đoàn viễn thông và công nghiệp quân sự Viettel.


0

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

Mỹ tung chiến thuật ‘khó dự đoán’ ở Biển Đông

Hai máy bay ném bom chiến lược siêu thanh B-1B Lancer đã thực hiện nhiệm vụ ở Biển Đông vào ngày 29.4. Đây là một phần trong chiến thuật “khó dự đoán” của quân đội Mỹ.


Hai máy bay ném bom B-1B tiếp cận máy bay tiếp nhiêu liệu KC-135 khi thực hiện nhiệm vụ ở Biển Đông ngày 29.4


Hai máy bay ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota (Mỹ), thực hiện nhiệm vụ trên Biển Đông rồi quay trở lại căn cứ, theo trang Pacific Air Forces ngày 30.4. Chuyến bay này kéo dài 32 giờ.

Hồi tuần rồi, một máy bay ném bom B-1B hôm 22.4 đã thực hiện chuyến bay kéo dài 29 giờ tới khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để bay diễn tập cùng 6 máy bay chiến đấu F-16 (Mỹ) và các chiến đấu cơ F-2, F-15 của Nhật Bản ở ngoài khơi Nhật Bản rồi quay trở lại căn cứ.

"Đây là nhiệm vụ nhằm đảm bảo cam kết với đồng minh và ngăn chặn đối thủ, cùng lúc thực hiện mô hình triển khai lực lượng linh động", ông Lincoln Coleman, chỉ huy Phi đội ném bom thứ 37, cho biết.

Chiến thuật mới của Mỹ

Trả lời phỏng vấn đài CNN, ông Timothy Heath, chuyên gia quốc phòng của tổ chức nghiên cứu chính sách Rand Corp (Mỹ), cho biết các nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ là một phần chiến thuật "không thể đoán trước được hoạt động" của Lầu Năm Góc hay còn gọi là mô hình triển khai lực lượng linh động. Mục tiêu của chiến thuật mới là không để cho đối thủ dự đoán được việc triển khai lực lượng cố định hoặc luân phiên.

Ông Heath chỉ ra một động thái tương tự hôm 17.4, khi đó Không quân Mỹ bất ngờ rút các máy bay ném bom B-1, B-2 và B-52 khỏi đảo Guam ở Thái Bình dương. Động thái này chấm dứt chương trình Máy bay ném bom hiện diện thường trực ở Guam.

Tuy nhiên, năm ngày sau đó, máy bay ném bom B-1B bất ngờ quay trở lại Thái Bình Dương, diễn tập với chiến đấu cơ Nhật Bản ngoài khơi bờ biển Nhật Bản. "Như vậy, dù máy bay ném bom không còn hiện diện ở Guam nhưng luôn sẵn sàng xuất kích. Tương tự, các lực lượng của Mỹ cũng có khả năng thực hiện những nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ ở Biển Đông, không giống mô hình trước đây vốn có thể dự đoán được", chuyên gia Heath nói.


Hai máy bay ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota (Mỹ) ngày 28.

Nhà phân tích Carl Schuster, cựu đại tá Hải quân Mỹ, cho biết chiến thuật “khó dự đoán” cũng thể hiện rõ khi tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry hôm 28.4 bất ngờ thực hiện nhiệm vụ tuần tra đảm bảo tự do hàng hải gần các đảo bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố đã triển khai lực lượng để cảnh báo và xua đuổi khu trục hạm Mỹ USS Barry khỏi vùng biển gần Hoàng Sa ngày 28.4. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau (tức 29.4), Trung Quốc chắc chắn rất bất ngờ khi hai máy bay ném bom chiến lược B-1B xuất hiện ở Biển Đông và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill thì tuần tra gần Trường Sa, theo ông Schuster.

Điều này cho thấy sự thay đổi chiến thuật của Mỹ, với những cuộc tuần tra đảm bảo tự do hàng hải được thực hiện liên tiếp ở Biển Đông. Trước đây, những cuộc tuần tra như thế này thường xảy ra cách nhau vài tuần hoặc hơn.

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm 23.4 đã lên án Trung Quốc lợi dụng thế giới tập trung ứng phó đại dịch Covid-19 để tiếp tục thực hiện hành vi khiêu khích ở Biển Đông.

Ông Pompeo đã chỉ rõ những hành động phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông trong tháng 4, bao gồm: thành lập hai đơn vị hành chính cấp quận - huyện bất hợp pháp để kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam; xây trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập và Đá Xu Bi ở Trường Sa; điều đội tàu dọa dẫm và ngăn chặn láng giềng thăm dò, khai thác tài nguyên ngoài khơi.

Nguồn: https://thanhnien.vn/the-gioi/my-tung-chien-thuat-kho-du-doan-o-bien-dong-1218145.html
0

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Lợi dụng dịch bệnh để quấy rối trên Biển Đông: Nước cờ sai của Trung Quốc

Bắc Kinh đã sai lầm khi liên tục thực hiện các hành vi khiêu khích trên Biển Đông vì cho rằng các bên liên quan sẽ phản ứng yếu ớt trong bối cảnh bận đối phó với đại dịch khởi nguồn từ Trung Quốc.

Tàu đổ bộ tấn công USS America, với khả năng triển khai tiêm kích tàng hình F-35, dẫn đầu nhóm tàu chiến Mỹ - Úc trong cuộc tập trận chung phía nam Biển Đông - Ảnh: US NAVY


Trung Quốc đã cho thấy họ sẽ không bao giờ từ bỏ các yêu sách chủ quyền vô lý trên Biển Đông, bất chấp đã bị cộng đồng quốc tế nhiều lần bác bỏ. Giới chuyên gia nhận định kể cả khi không có đại dịch COVID-19, Bắc Kinh vẫn sẽ bắt nạt ngư dân nước khác và quấy rối các hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực.

"Trung Quốc đang tận dụng triệt để đại dịch với niềm tin là những gì họ đang làm sẽ không vấp phải sự phản đối nào hoặc phản đối yếu ớt từ các bên ở Biển Đông", chuyên gia Collin Koh đặt vấn đề và cho rằng Bắc Kinh đã đánh giá thấp phản ứng của các nước.


Việc khảo sát và đặt tên cho các thực thể địa lý dưới đáy biển với danh nghĩa nghiên cứu khoa học sẽ không bao giờ có thể trở thành cơ sở cho các yêu sách đối với vùng biển hoặc tài nguyên ở đó

___Jay Batongbacal (giám đốc Viện Các vấn đề hàng hải và Luật biển của Philippines nói về việc Trung Quốc tự tiện đặt tên cho hơn 80 thực thể địa lý ở Biển Đông)___

Gặp phản ứng mạnh

Hôm 24-4, USS Barry - tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường của hải quân Mỹ - đã băng ngang qua eo biển hẹp nằm giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục để tiến về phía nam (hướng đi vào Biển Đông), đánh dấu lần thứ hai trong vòng chưa đầy 1 tháng tàu chiến Mỹ đi qua khu vực này.

Đây có thể xem là một thông điệp mà Mỹ muốn gửi đến Trung Quốc rằng kể cả khi bị đại dịch hoành hành, sức mạnh quân sự và sự hiện diện của Washington tại khu vực sẽ không thay đổi.

Nói như một nhà quan sát, trong lúc Trung Quốc liên tục xâm phạm chủ quyền của nước khác trên Biển Đông, Mỹ vừa cho Trung Quốc biết cảm giác tương tự. Bắc Kinh xem Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời nhưng qua hàng chục năm vẫn chưa thể thống nhất được hòn đảo này.

Trong lúc đó tại phía nam Biển Đông, 3 tàu chiến của Mỹ và 1 tàu khu trục Úc đã tham gia một cuộc tập trận chung tại khu vực không xa nơi tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo sát bất hợp pháp ở vùng biển Malaysia.

Không rõ cuộc tập trận này có được lên kế hoạch từ trước hay không, nhưng động thái của Mỹ cùng đồng minh là câu trả lời cho việc Trung Quốc lợi dụng COVID-19 dùng tàu sân bay để "diễu võ giương oai" trên Biển Đông.

Theo chuyên gia Koh, ngay cả khi tàu sân bay Mỹ không hoạt động, Washington vẫn còn nhiều tàu chiến khác sẵn sàng tiến vào khu vực và chứng minh sự hiện diện trên Biển Đông.

Trên mặt trận ngoại giao, không chỉ đối mặt với các tuyên bố phản đối liên tiếp của Việt Nam, Trung Quốc còn hứng làn sóng chỉ trích và quan ngại mạnh mẽ từ Mỹ, Nhật Bản, Úc, Philippines.

Âm mưu quấy rối xuyên suốt

Ý đồ "đục nước béo cò" của Trung Quốc đến giờ đã thể hiện rõ trên Biển Đông. Trên mặt giấy tờ, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đồng thời gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc vu cáo Việt Nam "chiếm đóng trái phép các đảo thuộc Trung Quốc".

Các động thái trên giấy tờ lẫn ngoài thực địa diễn ra một cách dồn dập và gói gọn trong vòng 3 tuần đầu của tháng 4, khiến nhiều người tin rằng Trung Quốc đang lợi dụng tình cảnh các nước bận đối phó với dịch bệnh để thúc đẩy yêu sách trên Biển Đông.

Nhưng theo giới quan sát, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc thực hiện các hành vi khiêu khích và đe dọa nước khác như vậy trên Biển Đông. Ông Gregory B. Poling - giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (Mỹ) - khẳng định Trung Quốc sẽ không vì đại dịch mà từ bỏ kế hoạch quấy rối dài hạn trên Biển Đông, theo Đài NPR của Mỹ.

"Các hành vi của Bắc Kinh mà chúng ta đang thấy trên Biển Đông đã từng diễn ra trước đó và chắc chắn sẽ lặp lại trong tương lai" - vị chuyên gia Mỹ nhận định.

Rõ ràng là sau khi hoàn tất việc bồi đắp trái phép các đảo nhân tạo, tức tăng cường hiện diện thường xuyên trên Biển Đông, Bắc Kinh bắt đầu lập kế hoạch dài hơi để củng cố yêu sách chủ quyền vô lý và liên tục bổ sung các "chiêu thức" mới qua từng năm.

Chẳng hạn, Trung Quốc ban đầu sử dụng tàu hải cảnh để đe dọa tàu cá nước khác thì hiện tại đã chuyển sang kết hợp tàu hải cảnh và tàu khảo sát để cản trở các hoạt động khai thác dầu khí của quốc gia khác trên Biển Đông.

Những hành động có chủ ý, có tính toán như vậy chỉ tạo ra thêm căng thẳng với các nước ASEAN và làm dấy lên sự nghi ngờ về cái gọi là sự chân thành của Trung Quốc trong việc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Nguồn: https://tuoitre.vn/loi-dung-dich-benh-de-quay-roi-tren-bien-dong-nuoc-co-sai-cua-trung-quoc-20200426115346598.htm
0

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Biển Đông: Ai sẽ liên minh và hậu thuẫn Việt Nam?


(BBC Tiếng Việt) - Việt Nam không nên liên minh quân sự với bất cứ nước mạnh nào kể cả Mỹ, và cũng không có nước nào có thể hậu thuẫn Việt Nam trong lúc này, ý kiến các học giả từ đại học Hoa Kỳ.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long, nhà nghiên cứu lịch sử và Trung Quốc học từ Đại học Maine nêu quan điểm:

"Tôi nghĩ Việt Nam không nên liên minh với một nước mạnh, nhất là liên minh với Mỹ. Tăng cường sự hợp tác về an ninh với Mỹ là tốt, nhưng mà liên minh sẽ cho Trung Quốc cái cớ để làm áp lực với Việt Nam đủ mọi việc.

"Chúng ta phải nên nghĩ rằng ngoài Biển Đông còn đất liền nữa, mà đất liền, vấn đề về quân sự, về kinh tế v.v… rất là lớn, Trung Quốc có cớ, thể lực để mà đánh Việt Nam theo kế gọng kìm.

"Việt Nam nên suy nghĩ chín chắn trong vấn đề có liên minh hay là không, nhưng mà tôi nghĩ củng cố an ninh của mình bằng cách tăng cường sự hợp tác với các nước trong khu vực và Mỹ hay Úc là vấn đề tốt thôi."


Tổng thống Pháp Emmanuel Macron chào đón ông Nguyễn Phú Trọng ở Paris tháng 3/2018

'Liên minh với ai, ai liên minh?'

Việt Nam cần làm gì nếu Trung Quốc có hành vi được cho là lấn tới, thậm chí có hành động quân sự với Trường Sa và trên Biển Đông như đã từng tiến hành các năm 1974, 1988 trước đây, Giáo sư Long bình luận tiếp:

"Việt Nam phải kêu gọi các nước vì an ninh chung, vấn đề liên minh là vấn đề xưa rồi, chẳng hạn như là Mỹ liên minh với Philippines hay là liên minh với Đài Loan, hay là với Hàn Quốc, đó là thời chiến tranh Lạnh.

"Bây giờ thời đó đã đi qua rồi, có thể trong tương lai xa sẽ trở lại, nhưng mà bây giờ đi đến vấn đề liên minh thì tôi nghĩ rất là nguy hiểm."

Từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế phát biểu:
"Việt Nam, liên minh quân sự với nước nào để chống Trung Quốc, thì giải pháp ấy là không thực tiễn.

"Việt Nam muốn liên minh thì liên minh với ai? Đông Nam Á, không ai muốn liên minh với Việt Nam cả. Những nước lớn như Ấn Độ thì cứ theo chính sách lờ mờ, trung lập, có thể hiện nay là hơi chống Trung Quốc một chút.

"Nhưng mà truyền thống của Ấn Độ là cứ đứng ngoài diễn thuyết về đạo lý cho người khác thôi, chứ không dính dáng vào.
"Nhật Bản, hiến pháp rất giới hạn việc đó. Thành ra những nước mà đáng có thể giúp cho Việt Nam ở trong vùng thì không có.

"Mỹ hiện nay là một đồng minh không khả tin, là bởi vì thứ nhất trong chính sách nội bộ đối với Trung Quốc thì đã chưa đồng nhất rồi.

"Mỹ luôn luôn tính toán. Liên minh thì phải có lợi cho Mỹ. Tức là hai bên cùng có lợi, tức là khi nào tích sản thì gọi là liên minh, còn nếu là tiêu sản, làm hại cho mình, thì không liên minh nữa.

"Vì thế, nếu Việt Nam dùng Mỹ để liên minh để chống Trung Quốc, thì Mỹ lại sợ rằng nếu trong trường hợp này Việt Nam gan lên, thì Mỹ lại tự nhiên phải đi vào đánh nhau với Trung Quốc, Mỹ sẽ không muốn phải vì Việt Nam mà chiến tranh với Trung Quốc.

"Cho nên tình hình hiện tại cho thấy giải pháp đó không thực tiễn. Việt Nam cũng không muốn và không ai muốn chuyện đó xảy ra trong lúc này."


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng thống Mỹ Donald Trump ở Hà Nội tháng 11/2017

Từ tìm hiểu tương quan

Việt Nam cần phải làm gì, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nêu quan điểm:

"Trên thực tế, bất cứ luật pháp cũng phải hậu thuẫn được bằng sức mạnh, thành ra phải có một tương quan lực lượng tốt đẹp, thuận lợi nào thì mới có thể ngăn chặn được Trung Quốc.

"Về tương quan lực lượng, nước có thể đối trọng nhất với Trung Quốc là Mỹ và Mỹ hiện nay ở trong rắc rối đó.

"Thí dụ về mặt lý thuyết thôi, Mỹ thấy Việt Nam là quan trọng và Mỹ cũng cần đến cái đó, thì thực sự Việt Nam có thể vận dụng khối các quốc gia Đông Nam Á, với điều kiện là khối đó thuần nhất.

"Hai cái đó tương tác với nhau, nếu mà khối Đông Nam Á thuần nhất, cùng cố gắng chống Trung Quốc, thì lại giúp cho Mỹ can thiệp nhiều hơn và can dự nhiều hơn.

"Ngược lại, Mỹ càng can thiệp ít hơn, các quốc gia kia càng chia rẽ hơn, là vì họ phải tính rằng nếu Trung Quốc trở thành một lực lượng trội ở khu vực đó, nếu Mỹ mà không giúp họ, họ phải tìm cách thích ứng với một quốc gia lớn hơn mình.

"Thì đó là lý do hiện nay mà chúng ta thấy các quốc gia không có quyền lợi thiết thực về Biển Đông thì tìm cách "rón rén" đi dây, nếu Mỹ tiến thì tôi tiến theo, Mỹ lùi thì tôi phải tiếp ứng Trung Quốc.

"Thành ra chúng ta thấy hai yếu tố đáng để ý. Thứ nhất là sự đoàn kết Đông Nam Á và thứ hai, sự can dự của Mỹ. Hai cái có tác dụng hỗ tương với nhau.

"Và trong trường hợp Đông Nam Á, mà theo phương thức đồng thuận thì không bao giờ làm được cái gì lớn cả. Đồng thuận chỉ có tính cách mẫu số chung nhỏ nhất, cái mà ít người chống đối nó thôi. Còn vì thế phải có quyết liệt."


Việt Nam ngày càng mở cửa với thế giới

Đến chính sách, vận dụng

Việt Nam cần khéo léo tìm phương thức vận dụng để thu được lợi ích cho mình, GS Nguyễn Mạnh Hùng nói tiếp:
"Nếu muốn vận động cái đó thì dĩ nhiên phải vận động một khối nào đó nó trở thành một sự thúc đẩy, những nước quan trọng mà thúc đẩy.

"Thì những nước đó có quyền lợi chung, có thể nên vận dụng những nước có quyền lợi chung đó. Và một trong những nước rất quan trọng mà tôi nghĩ là khó lôi họ vào là Indonesia. Indonesia là nước rất mạnh, đông dân.

"Nếu họ có quan tâm đến thì tốt hơn, nhưng theo ước tính của tôi thì Indonesia có đường lối riêng của họ, khó đưa vào. Thì chỉ còn vài nước nhỏ thôi - Philippines, Malaysia, như Việt Nam, là những nước có quan hệ, trên lý thuyết, nên vận động những nước đó và nhất là vận động cả Singapore nữa.

"Thành ra, nếu có sự ủng hộ thêm của Singapore, sẽ tạo thêm uy tín, sức mạnh quốc tế - quyền lợi mềm của họ, nên vận động.

"Do đó, chúng ta thấy mỗi nước đều có quyền lợi riêng, cho nên về lý thuyết thì nên vận động, nhưng mà về thực tiễn, thì tôi thấy cuộc vận động đó rất là khó khăn," học giả từ Đại học George Mason, Hoa Kỳ nói với BBC News Tiếng Việt.

Ngồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52405172
0

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Trung Quốc “tung đòn” nguy hiểm trong âm mưu độc chiếm Biển Đông

Trung Quốc đang áp dụng cùng lúc ba mũi giáp công, trong đó chiêu nguy hiểm nhất là hợp lý hoá bằng pháp lý để âm mưu độc chiếm Biển Đông.


Thiếu tướng Lê Văn Cương (ảnh: nhadautu.vn)

Nghe:

Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 18/4 ngang ngược tuyên bố chính phủ nước này đã phê chuẩn thành lập "thành phố Tam Sa" ở Biển Đông, bao gồm "quận Tây Sa" (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Một ngày sau đó, Trung Quốc tiếp tục công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, bao gồm 25 đảo, đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy biển.

Trước đó, đầu tháng 4, Trung Quốc đã đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình, điển hình nhất là 2/4 vừa rồi đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi, bắt 8 ngư dân.

Báo Giao thông đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) về những diễn biến phức tạp trên Biển Đông.

Ba mũi giáp công để âm mưu độc chiếm Biển Đông

Ngày 19/4, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc ngày 18/4/2020 thông báo thành lập “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” tại “thành phố Tam Sa” trên Biển Đông. Ông có bình luận gì về động thái của Trung Quốc lần này?

Mặt trận về pháp lý là một mũi giáp công trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Năm 2012, khi Việt Nam công bố Luật Biển, họ phản ứng bằng cách thành lập TP Tam Sa. Tam Sa bao gồm 1 vùng rất lớn cả Trường Sa, Hoàng Sa, 1 phần đơn vị của Hải Nam (Trung Quốc).

Lần này, Trung Quốc tinh vi hơn, tách thành đơn vị hành chính riêng, Hoàng Sa riêng, Trường Sa riêng. Tức Trung Quốc đã hợp thức hoá về pháp lý tại Trung Quốc đơn vị hành chính này.

Hành động phục vụ âm mưu độc chiếm Biển Đông lần này của Trung Quốc có khác trước không, thưa ông?

Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là không thay đổi, chỉ là mỗi thời kỳ lãnh đạo lại có cách hoạt động, phương thức, quy mô và tính chất khác nhau. Dưới thời Tập Cận Bình, âm mưu độc chiếm Biển Đông được thể hiện và hành động quyết liệt hơn, đặc biệt là từ năm 2019 đến nay.

Trung Quốc thường song song 3 mũi giáp công trong tham vọng độc chiếm trên Biển Đông: trên thực địa, trên biển và tuyên truyền. Đầu năm nay, Trung Quốc tăng cường cả ba mũi giáp công này.

Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Trung Quốc tăng cường hoạt động thực địa trên Biển Đông, đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình. Điển hình nhất là ngày 2/4 vừa rồi, đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi.

Trên mặt trận tuyên truyền, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam ngày 2/4, thì từ ngày 3/4, phát thanh, truyền hình, báo chí Trung Quốc có hàng trăm bài “đổi trắng thay đen”, vu cáo 1 cách trắng trợn, lố bịch rằng: Có hàng trăm tàu cá Việt Nam đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, việc xô xát ngày 2/4 là “giọt nước tràn ly” vì Trung Quốc đã nhẫn nhịn bao lâu rồi.

Và trên mặt trận hợp pháp hoá bằng pháp lý, chính là việc công bố thành lập "quận Tây Sa", "quận Nam Sa".

Việc Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như vùng biển xung quanh có bất kỳ giá trị nào về mặt pháp lý hay không, thưa ông?

Đây chỉ là hành động đơn phương từ phía Trung Quốc và hoàn toàn không có giá trị pháp lý vì không phù hợp với luật pháp quốc tế và không được các quốc gia liên quan công nhận.

Việt Nam rất nhiều lần khẳng định chủ quyền lâu đời và không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được chứng minh bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý. Mới đây nhất, trong công hàm gửi lên Liên hiệp quốc ngày 30/3, chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định điều này.

Theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982, công ước lớn nhất về luật biển mà Trung Quốc cũng là thành viên, các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Những thực thể ở Trường Sa, đều thuộc dạng này. Do đó, Trung Quốc không thể tự cho mình quyền quản lý những khu vực đó.

Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ

Vậy Trung Quốc sẽ đạt được gì từ việc thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa", trong khi việc này không có giá trị pháp lý về quốc tế, thưa ông?

Trong 3 mũi giáp công như tôi nói ở trên, thì hợp thức hoá về pháp lý là bước đi cực kỳ nguy hiểm.

Vì trên thực địa, khi Trung Quốc kéo tàu đến Biển Đông, Việt Nam và các nước phản đối là họ rút. Trên truyền thông, Trung Quốc đổi trắng thay đen nhưng ngay cả người dân Trung Quốc, nhiều người cũng không nghe, không tin.

Nhưng về pháp lý, khi đã có quyết định của Quốc hội, của Chính phủ Trung Quốc, thì sẽ không dễ dàng huỷ bỏ như kiểu rút tàu về trên thực địa được.

Với Việt Nam và quốc tế, công bố này của Trung Quốc không có giá trị, nhưng lại có giá trị pháp lý ở Trung Quốc, được Trung Quốc công nhận. Điều đó dẫn tới khi ta thực hiện các quyền lợi hợp pháp trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tuyên bố đây là hành động xâm lược, và vẫn có thể kích động người dân Trung Quốc đứng về cơ sở pháp lý nguỵ tạo này.

Vì vậy, đây là bước đi leo thang cực kỳ nguy hiểm trên Biển Đông, rất thâm độc.

Trong lúc cả thế giới đang tập trung phòng chống dịch Covid-19, thì Trung Quốc lại có những hành động gây hấn trên Biển Đông. Điều này có vẻ phi logic, thưa ông?

Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ. Ở Biển Đông, Trung Quốc chỉ sợ Mỹ, sau đó đến châu Âu vì các nước châu Âu là đối tác kinh tế của họ.

Lợi dụng thời điểm cả Mỹ và châu Âu đều đang rối ren với dịch bệnh Covid-19, Trung Quốc đã dồn dập gây hấn Biển Đông cả trên 3 phương diện tuyên truyền, thực địa và hợp thức hoá pháp lý.

Chưa kể, đây là giai đoạn kinh tế Trung Quốc đang sa sút vì Covid-19, người dân bất bình. Mỗi khi có vấn đề nội bộ, Tập Cận Bình luôn tìm cách đẩy dư luận hướng ra bên ngoài, mà gây hấn trên Biển Đông là một giải pháp.

Phương án khởi kiện chưa phải lúc

Nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, phản ứng của Việt Nam cần mạnh mẽ hơn, cần phải đưa vụ việc ra kiện tại một toà án quốc tế?

Tất nhiên trên mạng, có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tôi muốn lưu ý mọi người rằng cái đánh giá phản ứng của Việt Nam như thế nào phải căn cứ vào tình hình tình huống chính trị cụ thể, căn cứ vào trạng thái mối quan hệ hiện nay của Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và với cộng đồng quốc tế nói chung, căn cứ vào 1 vấn đề rộng hơn là quan hệ Trung - Mỹ...

Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển thông thường thế giới cũng phải qua 2 giai đoạn, giai đoạn 1 đấu tranh bằng con đường thương lượng, song phương, đa phương bằng biện pháp hoà bình, trao đi đổi lại qua hàng trăm cuộc họp, lật đi lật lại các luật pháp quốc tế. Biện pháp này, Liên hiệp quốc khuyến khích và chúng ta đang làm theo.

Nếu làm theo phương án này mãi mà không thành công thì khởi kiện thông qua tổ chức tài phán quốc tế, như kiện toà công ký quốc tế, toà công lý về luật biển...

Chúng ta sẽ không từ bỏ 1 biện pháp nào cả, kể cả kiện không được thì đánh nhau, chúng ta cũng sẵn sàng. Người Việt Nam ta nhân hậu và yêu hoà bình, nhưng khi họ dồn chúng ta vào chân tường, chĩa súng vào chúng ta, chúng ta không thể đứng nghiêm chịu chết được. Nhưng chúng ta không muốn điều này xảy ra.

Còn bây giờ đang trong giai đoạn tận dụng tối đa đàm phán song phương, biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cái gì còn tác dụng thì chúng ta khai thác. Hiện theo tôi, phương án khởi kiện chưa phải lúc.

Nguồn: https://www.baogiaothong.vn/trung-quoc-tung-don-nguy-hiem-trong-am-muu-doc-chiem-bien-dong-d462523.html
0

Việt Nam lên tiếng trước phát ngôn đe dọa của Trung Quốc về Biển Đông

"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc" về Biển Đông, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết.


Trung Quốc xây dựng công trình trái phép trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam. ẢNH: MAI THANH HẢI

Chiều nay, 23.4, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao (tổ chức bằng hình thức trực tuyến), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng đã trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước Công hàm ngày 17.4 của Trung Quốc, và phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng vào các buổi họp báo 20.4 và 21.4.

Theo đó, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết, như đã nêu tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao ngày 9.4, việc Việt Nam gửi công hàm tại Liên Hợp Quốc là việc bình thường, thể hiện lập trường và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

"Trước việc Trung Quốc lưu hành một số công hàm nêu các yêu sách chủ quyền phi lý đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phù hợp với luật pháp quốc tế; cùng các yêu sách biển ở Biển Đông, trái với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNLCOS), Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để bác bỏ các yêu sách này, như đã được nêu trong nhiều văn bản của Liên Hợp Quốc và các cơ quan quốc tế liên quan", ông Ngô Toàn Thắng nhấn mạnh.

"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Thắng nói thêm.

Trước đó, ngày 10.4, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường về vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng một lần nữa nhắc lại việc Việt Nam đã nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với quy định và luật pháp quốc tế.

Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS. Mọi yêu sách biển trái với UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam, là không có giá trị, theo ông Thắng.

Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nhắc lại quan điểm của Việt Nam: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe đọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nhấn mạnh.

Trước đó, tại buổi họp báo ngày 20.4, khi được hỏi về phản ứng trước việc Việt Nam phản đối chính quyền Trung Quốc lập 2 quận để quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã có những luận điệu ngang ngược, đe dọa đối với Việt Nam.

Theo đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp tục luận điệu sai trái về chủ quyền với cái gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa", cho rằng Việt Nam đã xâm phạm chủ quyền và lợi ích của nước này tại Biển Đông, thậm chí đe dọa Trung Quốc sẽ "sử dụng các biện pháp cần thiết" để bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc.

Nguồn: Thanh Niên
0

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Trung Quốc sẽ trắng tay vì muốn độc chiếm biển Đông


(20/04/2020)- Trung Quốc hiện đang muốn lợi dụng tình hình phức tạp của đại dịch COVID-19 để đẩy nhanh kế hoạch độc chiếm biển Đông.

Tờ South China Morning Post ngày 18-4 đưa tin chính quyền Trung Quốc (TQ) đã bất ngờ thông báo thành lập cái gọi là hai huyện đảo Tây Sa và Nam Sa trực thuộc TP tam Sa để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam (VN). Phía VN đã không ngừng phản đối các động thái vi phạm pháp luật mà TQ đã thực hiện suốt thời gian qua.

Sẽ còn gia tăng hành động phi pháp

Bình luận về động thái của Bắc Kinh, TS Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), cho rằng TQ muốn gửi đi thông điệp là họ sẽ không bao giờ từ bỏ các yêu sách về chủ quyền ở khu vực biển Đông. “Rõ ràng Bắc Kinh có những bước đi cụ thể để hiện thực hóa ý đồ từ chiếm giữ bất hợp pháp thành một lãnh thổ dưới quyền kiểm soát hành chính” - ông Trung nói.

TQ đã và đang dần biến khu vực (mà TQ gọi là) TP Tam Sa thành những khu vực có người cư trú lâu dài với khoảng 1.800 người. Việc TQ vô lý thành lập hai quận mới để chính thức hóa quan điểm của họ là các thực thể mà TQ đang chiếm giữ có khả năng duy trì sự sống cho người cư ngụ.

GS Ngô Vĩnh Long, chuyên gia quan hệ quốc tế tại ĐH Maine (Mỹ), nhận định hành động lần này nằm trong chuỗi sự kiện mà Bắc Kinh đã tính toán từ trước. Mục đích của TQ là tiếp tục khẳng định chủ quyền theo yêu sách đường chín đoạn (hay đường lưỡi bò), bất chấp Tòa Trọng tài đã bác bỏ vào năm 2016.

Trong khi đó, chuyên gia quốc phòng Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) thì cho rằng: “Rõ ràng là TQ đang tìm kiếm thêm lợi ích trên biển Đông trước khi Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) được ban hành. Ngay cả nếu COC không được thông qua, TQ khi đó cũng đã có một thế đứng vững chắc hơn rất nhiều trên biển Đông.


Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của VN nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Ảnh: AMTI

Lợi bất cập hại

Dù thừa nhận rằng mọi hành động của TQ đều có toan tính trước nhưng giới quan sát cũng đồng thuận rằng dịch COVID-19 tạo ra một khoảng trống để Bắc Kinh lợi dụng gây hấn ở biển Đông. Thêm vào đó, đại dịch gây ra một cuộc khủng hoảng tại TQ. Vậy nên “chuyển lửa ra biển Đông” cũng là một kế sách, tuy không còn mới nhưng là dễ hiểu với TQ.

Mặt khác, việc leo thang căng thẳng ở biển Đông cũng là giải pháp để TQ gây áp lực trên bàn đàm phán COC. Song song đó, các thông tin về việc thiết lập các cơ quan hành chính trên sẽ được TQ dùng để tuyên truyền, tạo cớ nhằm gây bất an cho lực lượng chấp pháp, ngư dân, tàu thuyền các nước qua lại biển Đông. Đầu tháng 4-2020, tàu hải cảnh của TQ đã đâm chìm tàu cá của VN, tạo ra sự bức xúc lớn không chỉ từ VN mà còn trong cộng đồng quốc tế. Việc lập ra các quận đảo có thể là bước đầu để TQ đẩy mạnh các hoạt động bắt nạt tương tự.

TQ chắc chắn sẽ tăng cường nguồn lực để quản lý hai huyện đảo mới thành lập, biến các đơn vị hành chính này thành “vùng đệm ở tuyến đầu” để giải quyết bất kỳ vấn đề nào phát sinh ở các khu vực xung quanh. Ngoài ra, hai huyện đảo sẽ giúp TQ rộng đường phối hợp và liên lạc với các lực lượng đang đồn trú trái phép trên hai quần đảo của VN.

KANG LIN, Phó Giám đốc chương trình Nghiên cứu biển Đông thuộc Viện Nghiên cứu quốc gia TQ (CNI)

Tuy nhiên, TQ có thể phải trả giá đắt hơn họ nghĩ. Chuỗi hành vi của TQ trên biển, đi cùng với những bê bối liên quan dịch COVID-19 (xuất phát từ TQ) khiến niềm tin của cộng đồng quốc tế với chính quyền Bắc Kinh suy giảm trầm trọng. Không thiếu các chỉ trích “thừa nước đục thả câu” nhắm vào lãnh đạo TQ suốt thời gian qua. Việc lập ra các quận đảo đi cùng các hành vi bắt nạt sẽ là “cọng rơm cuối làm gãy lưng con lạc đà”, khiến các nước phản ứng mạnh.

Đầu tiên sẽ là các nước trong khu vực. VN, trong vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 (và có thể kéo dài sang năm 2021 vì ảnh hưởng của dịch) và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chắc chắn sẽ có những bước đi ngoại giao quan trọng. Các nước ASEAN, trước các mối đe dọa an ninh do TQ tạo ra, chắc chắn sẽ không ngồi yên. Các “liên minh mềm”, ví dụ hợp tác về pháp lý, kinh tế, ngoại giao để đối trọng các hành xử sai trái của TQ là điều hoàn toàn khả dĩ và đang được kỳ vọng rộng rãi.

Một “nước Mỹ trên hết” ở xa khó chống lại TQ. Tuy nhiên, các sáng kiến về an ninh - quốc phòng, kinh tế với sự tham gia của các nước khu vực do Mỹ hậu thuẫn chắc chắn sẽ khiến TQ phải dè chừng.

Biển Đông là tuyến hàng hải vô cùng quan trọng, gắn liền lợi ích toàn cầu. Một khi niềm tin của các nước vào TQ suy giảm thì bằng nhiều cách khác nhau, họ sẽ có phản ứng tiêu cực với Bắc Kinh. Điển hình là việc cắt giảm đầu tư, chuyển hướng giao thương - hợp tác, lên án làm suy yếu hình ảnh “cường quốc có trách nhiệm và ảnh hưởng” mà TQ đang cố gắng theo đuổi. Mất niềm tin dễ dẫn đến việc TQ trắng tay và điều đó có vẻ không còn xa khi TQ vẫn hành xử phi pháp như lâu nay.

Biển Đông: Cách ứng phó Trung Quốc ‘xâm lấn vùng xám’

Trước một loạt hoạt động đơn phương gây rối của đội ngũ phức hợp các tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu khảo sát hải dương Trung Quốc (TQ), biển Đông dường như đã chuyển sang giai đoạn 3 của chiến lược “xâm lấn vùng xám” mà TQ đã triển khai nhất quán từ năm 2009.

Hai giai đoạn đầu là xây dựng lực lượng (2009-2014) và cải tạo thực địa (2015-2018). Trong đó, TQ gây áp lực đơn lẻ với từng nước và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm biển Đông. Ở giai đoạn 3, TQ lại tăng cường tần suất và mở rộng quy mô của các hoạt động xâm lấn cùng lúc sang cả năm khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ), còn gọi là “vành đai EEZ”, của các nước láng giềng Đông Nam Á.

Đây cũng là “giai đoạn nước rút” của chính phủ TQ trước thời hạn kết thúc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC) với ASEAN vào năm 2021. Thêm vào đó, đại dịch COVID-19 bùng nổ đã gián tiếp tạo nên các “khoảng trống quyền lực” trên biển Đông do hầu hết các nước đều đang tập trung chống dịch. Đây là hai nguyên nhân khiến TQ đẩy nhanh các hoạt động đơn phương phi pháp với tâm thế “thừa nước đục thả câu”.

Dĩ nhiên tư duy “nước rút” sẽ tạo nên điểm yếu, đó là nóng vội, từ đó gây nên những tính toán nhầm lẫn. Sự kiện tàu khảo sát HYDZ-8 đi dọc theo EEZ của Việt Nam (VN) để đến hoạt động ở khu vực EEZ của Indonesia, Malaysia và Brunei lúc này sẽ như một giọt nước tràn ly. Nó gián tiếp thúc đẩy các nước láng giềng Đông Nam Á thấy rõ đã đến lúc “tối lửa tắt đèn có nhau” - một kịch bản sẽ khiến TQ thêm khó khăn trên bàn đàm phán COC nói riêng và mặt trận pháp lý nói chung.
Hơn nữa, với các nền tảng hợp tác an ninh biển đã ký kết với Philippines (tháng 5-2018), Indonesia (tháng 6-2019), Malaysia (tháng 8-2019)... VN dường như đang kiện toàn mạng lưới liên lạc và hợp tác chấp pháp trên biển của riêng các nước ASEAN. Cùng với vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm 2020, VN hoàn toàn có đủ cơ sở tiến hành ba biện pháp như sau:

Thứ nhất, phối hợp với các nước thiết lập hồ sơ những vụ vi phạm của các tàu khảo sát hải dương, tàu chấp pháp và dân quân biển TQ trên các vùng biển liên quan đến “vành đai EEZ” của các nước ASEAN trên biển Đông. Song song đó, VN đẩy mạnh cùng các nước lưu hành công hàm phản đối các vi phạm của TQ trên Liên Hiệp Quốc.
Thứ hai, phát triển các sáng kiến về tuần tra chung trên biển Đông giữa lực lượng cảnh sát biển các nước ASEAN (như Malaysia, Philippines, Indonesia...) và cân nhắc sự tham gia mở rộng của các cường quốc bên ngoài dưới sự điều phối của ASEAN.

Thứ ba, củng cố và tăng cường hợp tác khai thác dầu khí và tài nguyên khác với các nước trong và ngoài khu vực (như Nga, Ấn Độ, Mỹ, Nhật…) ở các “vành đai EEZ” để gia tăng hiện diện lợi ích kinh tế của các cường quốc, từ đó nâng cao thế đối trọng và phản ứng quốc tế với các hành vi TQ xâm phạm “vành đai EEZ” này.

Với gói giải pháp trên, TQ càng xâm lấn trên biển Đông thì áp lực trên cả mặt trận tâm lý, pháp lý và truyền thông cho chính họ sẽ ngày càng lớn. TQ muốn duy trì phương châm “cường quốc có trách nhiệm” thì trước nhất phải ngừng ngay các hoạt động phi pháp để xây dựng lại từ đầu hình ảnh đó ở biển Đông.

ThS LỤC MINH TUẤN, nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS) ĐH KHXH&NV TP.HCM


Theo PLO
0

Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng đe dọa Việt Nam về Biển Đông

(21/04/2020)- Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 21/4 nói rằng họ vừa “giao thiệp nghiêm khắc” để đáp trả điều mà họ gọi là “Việt Nam tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp ở Biển Đông”, theo tin của Reuters và The Beijing News.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng

Tin cho hay ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói tại một cuộc họp báo hàng ngày rằng kể từ cuối tháng 3 vừa qua, Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi một số công hàm tới Tổng Thư ký LHQ, “liên tục tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp” tại Biển Đông, cũng như “cố phủ nhận” chủ quyền và các quyền của Trung Quốc ở vùng biển này.

“Trung Quốc kiên quyết phản đối điều đó và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam”, ông Cảnh Sảng tuyên bố, vẫn theo tin của Reuters và The Beijing News.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp đến nhấn mạnh rằng bất kỳ nước nào cố phủ nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào đều là “vô hiệu” và “chắc chắn sẽ thất bại”, bản tin của Reuters và The Beijing News cho biết.

“Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải [tức Biển Đông]”, ông Cảnh Sảng nói.

Theo quan sát của VOA, cho đến khi bản tin này được đăng, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng chính thức nào về tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, Việt Nam đã phản đối những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, bao gồm cả việc gửi tuyên bố chủ quyền đến LHQ.

Một số nhà phân tích và quan sát nhận định với VOA rằng cụm từ “mọi biện pháp cần thiết” trong tuyên bố hôm 21/4 của phía Trung Quốc là rất đáng lưu ý vì nó có hàm ý đe dọa, cũng như không loại trừ việc Trung Quốc tiến tới sử dụng biện pháp quân sự.

Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng 4 ngày, Trung Quốc nói bóng gió đến việc sử dụng vũ lực, theo thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông.

Ông Việt nhắc đến công hàm hôm 17/4 của Trung Quốc gửi đến Tổng Thư ký LHQ để phản đối Việt Nam, trong đó có đoạn: “Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp” ở quần đảo Trường Sa.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định với VOA về những tín hiệu liên tiếp phát đi từ Trung Quốc trong ít ngày qua:

“Rất có khả năng là lúc này, Trung Quốc có thể sẽ có hành động mạnh tay hơn ở khu vực Biển Đông.

Nguồn: VOA
0

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Tàu sân bay Mỹ lây COVID-19 từ đội bay, không phải từ chuyến thăm Việt Nam

(16/04/2020)- Các quan chức quân sự Mỹ ngày càng chắc chắn rằng, vụ bùng phát COVID-19 trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt hồi tháng trước khởi nguồn từ các chuyến bay, không phải là kết quả của chuyến thăm cảng Đà Nẵng, báo Mỹ Wall Street Journal đưa tin ngày 16/4.


Các quan chức quân sự Mỹ đi đến kết luận như vậy sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân của vụ bùng phát dịch bệnh khiến tàu sân bay Theodore Roosevelt phải ngừng hoạt động ở châu Á, chuyển hướng về cảng ở đảo Guam (Mỹ) – nơi hàng trăm thành viên thủy thủ đoàn, trong đó có cả cựu chỉ huy tàu, đang bị cách ly. Đây là ổ dịch lớn nhất tấn công quân nhân Mỹ.

Hơn 600 người trên tàu có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-Cov-2 (virus gây dịch bệnh COVID-19) và một thượng sĩ 41 tuổi đã tử vong. Một số người đang được điều trị trong bệnh viện.

Ổ dịch tàu sân bay Theodore Roosevelt cũng khiến lực lượng Hải quân Mỹ phải cải tổ lại nhân sự. Hạm trưởng Brett Crozier bị miễn nhiệm chức vụ chỉ huy tàu sân bay sau khi viết thư và phân phát một bản ghi nhớ về tình hình COVID-19 trên tàu. Sau đó, quyền Bộ trưởng Hải quân Thomas Modly (người quyết định sa thải hạm trưởng Crozier) từ chức sau khi chỉ trích ông Crozier một cách nặng nề.

Việc tình nghi dịch bệnh bùng phát trên tàu sân bay bắt nguồn từ các chuyến đi của các thành viên tổ lái (phi công lái máy bay trên tàu) khiến người ta lo ngại rằng, việc hải quân Mỹ quyết định không cho tàu cập cảng, đi thăm các nơi là không đủ để chặn đà lây nhiễm coronavirus mới. Hoạt động bình thường của tàu sân bay, trong đó có các máy bay cất và hạ cánh, cũng có vai trò trong việc lây nhiễm virus.


Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt mang đến Đà Nẵng hàng chục chiếc đấu cơ hợp thành một trong những không đoàn tàu sân bay hiện đại bậc nhất thế giới. Ảnh: Nguyễn Thành.

Tàu sân bay Theodore Roosevelt thăm Đà Nẵng từ ngày 4-9/3 (giờ Mỹ). Sau khi rời Việt Nam hơn 2 tuần, các thủy thủ trên tàu bắt đầu có triệu chứng và sau đó xét nghiệm cho thấy họ dương tính với SARS-Cov-2.

Các quan chức quân sự Mỹ nói rằng, tất cả gần 5.500 người trên tàu sân bay không ai nhiễm virus cho đến ngày 24 hoặc 25/3. Nói cách khác, hơn 2 tuần sau khi tàu rời cảng Đà Nẵng, thành viên đầu tiên của thủy thủ đoàn mới mắc bệnh.

Do giai đoạn ủ bệnh kéo dài 14 ngày, nên giới chức quân đội Mỹ loại bỏ khả năng việc thăm cảng là nguồn bệnh, các quan chức nói.

Một số quan chức quân sự Mỹ nói rằng, nhiều khả năng các chuyến bay do các phi đội trên tàu sân bay thực hiện, trong đó có chuyến bay chở hàng giữa tàu và Philippines, Nhật Bản… là nguồn khởi phát COVID-19.

Các tàu sân bay Mỹ thường có vài chục máy bay trên boong, cùng với tổ bay, phi công – những người tham gia các hoạt động không vận.

Những ca mắc COVID-19 đầu tiên trên tàu sân bay Theodore Roosevelt là thành viên của đội bay trên tàu, các quan chức quân sự nói.

Các quan chức Mỹ (những người tham gia chuyến thăm của tàu sân bay tới Đà Nẵng) nói rằng, giới chức Việt Nam thời điểm đó đã rất cẩn thận phòng chống COVID-19, thường xuyên đo thân nhiệt người ra vào, theo dõi các ổ dịch ở phòng tránh…

Ngoài ra, thành viên thủy thủ đoàn tàu tuần dương tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill (đi cùng tàu sân bay Theodore Roosevelt) cũng lên bờ tham gia các hoạt động, nhưng ai mắc bệnh, đại tướng Mark Milley, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, nói với các phóng viên hôm thứ Ba.

Lãnh đạo hải quân Mỹ đang xem xét số phận của hạm trưởng Crozier. Nhiều quan chức đang trông chờ ông sẽ được phục chức chỉ huy tàu sân bay Theodore Roosevelt trong những ngày tới.


Mang đồ ăn cho thủy thủ tàu sân bay Theodore Roosevelt không mắc COVID-19 ngày 7/4. Ảnh: US Navy.

Theo Tiền Phong
0

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Việt Nam quyết không để Trung Quốc chiếm Biển Đông


(11/04/2020)- Trung Quốc lợi dụng Covid-19 gây căng thẳng ở Biển Đông: Liệu Việt Nam, Philippines và Malaysia có cùng nhau đoàn kết chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông?

Vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam chỉ là để Trung Quốc phô trương cơ bắp, thị uy sức mạnh và khẳng định quyền bá chủ ở Biển Đông trong khi cả thế giới đang vật lộn chống lại đại dịch Covid-19.

Nhiều chuyên gia quốc tế nhận định, Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch Covid-19 để làm căng thẳng tình hình ở Biển Đông, bác bỏ yêu sách chủ quyền của các quốc gia láng giềng nhỏ hơn trong Đông Nam Á trên tuyến hàng hải thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa Bắc Kinh và các nước trong khu vực.

Về diễn biến mới trên Biển Đông, theo GS. Carl Thayer và PGS. Batongbacal, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Nhưng để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác. Theo đó, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc khi Bắc Kinh có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc muốn thị uy sức mạnh khi đánh chìm tàu cá Việt Nam?

Asia Times mới đây có bài phân tích của tác giả Richard Javad Heydarian (Giáo sư chính trị tại Đại học hàng đầu Philippines De La Salle - học giả nghiên cứu uy tín về Biển Đông) liên quan đến việc chính quyền Bắc Kinh tranh thủ chớp lấy cơ hội khi cả thế giới đang dồn sự chú ý đến coronavirus để “khẳng định chủ quyền lịch sử”, uy vũ sức mạnh và quyền bá chủ ở các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông.

Khi các quốc gia Đông Nam Á đang vật lộn quay cuồng chống lại dịch bệnh Covid-19, đồng thời, nhóm tàu chiến và căn cứ quân sự của Hải quân Hoa Kỳ cũng đang ở trong thế yếu trước nguy cơ bùng phát và lây lan virus corona, đe dọa tính mạng nhiều người, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của các bên thì Trung Quốc lại đang dùng mọi cách tận dụng cuộc khủng hoảng “dịch bệnh chết chóc” như thứ cơ hội chiến lược nhằm khẳng định quyền kiểm soát ở Biển Đông.

Với việc không một quân nhân nào của lực lượng Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) hay những đơn vị hữu quan khác được phát hiện nhiễm SARS-CoV-2, cường quốc châu Á này đang ngày càng “phô trương cơ bắp” thông qua loạt cuộc tập trận lớn của Quân đội, Hải quân, Không quân PLA nhằm củng cố quyền kiểm soát những thực thể tranh chấp trên Biển Đông. Theo Asia Times, mục đích mà Trung Quốc muốn hướng đến là rất đa dạng và khó lường, điển hình như gần đây nhất, Bắc Kinh muốn giám sát chiến lược Biển Đông và “đánh phủ đầu” yêu sách chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á nhỏ và yếu thế hơn.

Ngày 2 tháng 4, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, Việt Nam bị phía Trung Quốc đâm chìm ở Hoàng Sa. Tàu cá mang số hiệu QNg-90617 TS, công suất 420 CV do ngư dân Trần Hồng Thọ (sinh năm 1987 ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn) làm chủ phương tiện đăng ký hành nghề lặn. Tàu cá này xuất bến tại Trạm kiểm soát Biên phòng Sa Kỳ vào ngày 20 tháng 3 để ra vùng biển quần đảo Hoàng Sa hành nghề, trên tàu có 8 lao động.

Theo ghi nhận, khi bị tông chìm, có 3 tàu cá gồm tàu cá mang số hiệu QNg-90045 TS do ngư dân Đặng Tằm làm chủ phương tiện, tàu cá QNg-90399 TS do ngư dân Đặng Dũng làm chủ phương tiện và tàu cá QNg-90929 TS do ngư dân Nguyễn Thành Linh làm chủ phương tiện chạy đến để cứu hộ nhưng khi đến nơi thì không thấy phương tiện và ngư dân đi trên tàu cá QNg-90617 TS mà thấy một tàu sắt màu trắng của nước ngoài (Trung Quốc) đang xuất hiện tại đây. Ba tàu cá tiếp tục tìm kiếm nhưng không phát hiện được tàu cá QNg-90617 TS cùng các ngư dân bị nạn, nên ngư dân Đặng Tằm đã gọi điện thông báo sự việc đến cơ quan chức năng.

Trước đó, tối ngày 2 tháng 4, ông Phùng Bá Vương, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cũng xác nhận địa phương đã nhận tin báo của anh Nguyễn Thành Linh (chủ tàu QNg 90929) báo về phía tàu Trung Quốc đã trao trả 8 ngư dân trên tàu của anh Trần Hồng Thọ.

“Sau khi tàu của anh Thọ bị tông chìm, ba tàu của ngư dân đến cứu thì tàu Trung Quốc xua đuổi. Đến 8 giờ, tàu Trung Quốc bắt giữ trái pháp luật hai trong ba tàu đến cứu về đảo Phú Lâm. Họ giữ tại đây đến 16 giờ 30 mới trao trả 8 lao động trên tàu của anh Thọ và để hai tàu này đi”, ngư dân Nguyễn Thành Linh cho biết.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) cáo buộc tàu đánh cá Việt Nam xâm nhập vào vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc và khẳng định chính tàu cá của Việt Nam đột ngột chuyển hướng và đâm mạnh vào ram Tàu Hải cảnh của Trung Quốc.

Bà Hoa Xuân Oánh cũng khẳng định Bắc Kinh chỉ muốn chia sẻ thực tiễn và kinh nghiệm phòng chống dịch Covid-19 của Trung Quốc với các quốc gia khác, và sẽ không biến dịch bệnh thành bất kỳ loại vũ khí hoặc công cụ địa chính trị nào.

“Chính tàu cá Việt Nam đâm vào Tàu Hải cảnh của chúng tôi và bị chìm - tất cả 8 thủy thủ đoàn đã được giải cứu”, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Quân (Zhang Jun) bình luận về vụ việc này.

“Chúng tôi đã kêu gọi Việt Nam thực hiện nghiêm túc những biện pháp để tránh các sự cố tương tự xảy ra trong bối cảnh hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ngày càng gia tăng thường xuyên ở vùng biển Hoàng Sa”, ông Trương Quân nói.

Học giả Philippines: Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng coronavirus để dễ chiếm Biển Đông

Bình luận trên Asia Times, nhà nghiên cứu Biển Đông Richard Javad Heydarian cho biết, đại dịch coronavirus bắt nguồn từ Trung Quốc đang khiến nền kinh tế Philippines đối mặt với hàng loạt nguy cơ, thách thức, sự đình trệ và xu hướng suy thoái, cùng với những ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình hình kinh doanh, sản xuất, đời sống xã hội nước này, càng làm tăng thêm sự tức giận và bất bình giữa những người dân Philippines cũng như giới quan chức. Tất cả đều cảm thấy Bắc Kinh đang thúc đẩy cuộc khủng hoảng để giành lấy quyền bá chủ trên các vùng biển và thực thể mà Manila tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

“Có những lo ngại đồng thời rằng bệnh dịch coronavirus có thể làm suy yếu khả năng chiến đấu của Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) để bảo vệ đất nước chống lại các cuộc nổi dậy và các nhóm khủng bố ở các vùng cực nam và ngoại vi, cũng như bên ngoài Trung Quốc , phía nam Biển Hoa Đông và khu vực Tây Thái Bình Dương”, học giả Philippines bình luận.

“Trong khi Philippines đang vật lộn với tình hình Covid-19 diễn biến leo thang, Trung Quốc đồng thời đẩy mạnh quá trình quân sự hóa Đá Vành Khăn”, Asia Times cho biết.

Chưa hết, Trung Quốc cũng đang tăng cường sự hiện diện của mình xung quanh bãi cạn Scarborough, nằm cách các căn cứ quân sự Subic và Clark chiến lược của Philippines hơn 100 hải lý.

Mỹ, Philippines lên tiếng ủng hộ Việt Nam ở Biển Đông

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khẳng định rằng tàu Hải cảnh Trung Quốc đã có hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và đe dọa tính mạng cũng như làm tổn hại tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam.

“Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe doạ an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân và Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình và không có lợi cho quan hệ hai nước cũng như việc duy trì hoà bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Ngày 03/04/2020, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải cảnh Trung Quốc nêu trên, không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thoả đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.

Vụ việc đánh dấu lần thứ hai trong 12 tháng qua, lực lượng Hải giám, dân quân biển của Trung Quốc đã khiêu khích, đánh chìm tàu cá của những “đối thủ” quốc gia Đông Nam Á khác.

“Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy, và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi", tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines nêu rõ.

Trong tuyên bố phát ngày 8/4, Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh rằng các ngư dân nước này cũng từng là nạn nhân của Trung Quốc và sẽ mãi ghi nhớ hành động nhân đạo của Việt Nam khi cứu vớt các ngư dân Philippines.

“Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam về hành động đó. Và với suy nghĩ trên, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết”, Manila khẳng định.

Bộ Ngoại giao Philippines đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các sự cố như vừa xảy ra với tàu cá Việt Nam khiến quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc bị xói mòn trong bối cảnh hai bên đang đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Cũng trong một động thái ủng hộ Việt Nam và chỉ trích “thói bắt nạt” của Bắc Kinh, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngày 9/4 ra tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ở Biển Đông.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ quan ngại sâu sắc trước thông tin về việc tàu cảnh sát biển Trung Quốc va chạm và đâm chìm một tàu cá của Việt Nam tại khu vực gần đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.

“Hành vi của Trung Quốc trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, trong đó tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều được bảo đảm chủ quyền, không bị ép buộc và có quyền phát triển kinh tế phù hợp với các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực nhằm đảm bảo tự do hàng hải và cơ hội kinh tế trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, Lầu Năm Góc tuyên bố.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng nhấn mạnh đại dịch Covid-19 cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, vì điều đó tạo điều kiện cùng giải quyết mối đe dọa chung theo cách minh bạch, tập trung và hiệu quả.

Lầu Năm Góc cũng kêu gọi tất cả các bên kiềm chế những hành động gây mất ổn định khu vực, có thể làm chệch hướng nỗ lực toàn cầu tập trung đối phó với đại dịch, hoặc gây ra nguy cơ không cần thiết dẫn đến tổn thất về người và tài sản.

Việt Nam Philippines lẫn Malaysia sẽ cùng chống Trung Quốc ở Biển Đông?

Mặc dù vẫn còn đó những quan điểm khác biệt trong vấn đề Biển Đông, cả Việt Nam, Philippines lẫn Malaysia đều gắn kết nhau một cách tự nhiên trên góc độ đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế.

Sau sự kiện Trung Quốc sử dụng tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông để phản bác công hàm của hai nước Philippines và Malaysia, ngày 30/3, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi công hàm bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp của Bắc Kinh.

“Luật lệ dựa trên luật pháp sẽ có lợi cho Việt Nam, Philippines và Malaysia hơn nhiều so với luật rừng, nơi kẻ mạnh săn đuổi và chiến thắng kẻ yếu”, đó là ý kiến khẳng đinh của PGS Jay Batongbacal - giám đốc Viện các vấn đề hàng hải và luật biển (Đại học Philippines) bình luận với Tuổi Trẻ cho hay.

Dù được ký ngày 30 tháng 3, đến ngày 7 tháng 4 thông tin về công hàm của Việt Nam mới được phổ biến. Đây cũng là quãng thời gian Bộ Ngoại giao Philippines ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc tới vụ việc tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi (Việt Nam) ở vùng nước gần Hoàng Sa ngày 2 tháng 4.

Theo GS Carl Thayer, lý do mà nội dung đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) rất khó được thông qua cũng là vì bản thân Bộ Quy tắc này không định nghĩa được khu vực hàng hải ở Biển Đông mà nó sẽ áp đặt tính ràng buộc, bởi ngay cả trong nội bộ ASEAN cũng chưa nhất trí về hiện trạng khu vực này.

Dẫn chứng về vấn đề này, GS Thayer cũng nhấn mạnh, trong công hàm ngày 12/12/2019, Malaysia liên tục khẳng định đó chỉ là bản đệ trình một phần, và nó "không ảnh hưởng tới việc phân định thềm lục địa" và "không ảnh hưởng tới lập trường của các nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ hoặc lãnh hải".

“Điều đó để ngỏ khả năng Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể phân định khu vực chồng lấn để giải quyết tranh chấp. Philippines và Việt Nam hiện đang "cùng tông" đối với chuyện tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài (The Hague, Hà Lan) trong việc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Một lập trường nhất trí của ba nước sẽ có ích cho việc cô lập Trung Quốc về chính trị nhưng không làm thay đổi hiện trạng trên thực địa”, GS Thayer nhận định.

Cũng đồng ý với quan điểm này, PGS Jay Batongbacal của Philippines cũng khẳng định, không phải Việt Nam, Philippines và Malaysia đang "đoàn kết" chống lại Trung Quốc nếu hiểu theo lẽ thông thường.

“Rõ ràng mỗi nước vẫn hành động độc lập với nhau và không nhất thiết nhất trí với từng chi tiết khi đưa ra một lập trường đơn nhất khi đối mặt với Trung Quốc”, - ông Batongbacal nhận định.

PGS Batongbacal không cho rằng động thái của các nước trong thời gian vừa qua là “đoàn kết” theo nghĩa ba nước này đã “nhất trí một cách có ý thức” để cất lên tiếng nói duy nhất, hoặc đưa ra một lập trường chung nhất trong các tranh chấp.

“Tôi nghĩ chúng ta chưa đến thời điểm cố ý và chủ động phối hợp cho các quyết định, chính sách và hành động về vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng cái chúng ta đang chứng kiến là một sự nhất quán tự nhiên, hợp lôgic trong lập trường của mỗi bên, vốn dĩ đang là kỳ vọng vì tất cả đều cam kết với quy định pháp luật và đang đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế”, - PGS Batongbacal đưa ra quan điểm.

Theo ông Batongbacal, vì Việt Nam, Philippines hay Malaysia đều là các nước nhỏ, đang phát triển với sức mạnh quân sự và chính trị còn hạn chế hơn các nước lớn nên việc chú trọng luật quốc tế là tinh thần phù hợp. Việc tuân thủ luật pháp, bảo vệ và lên tiếng theo lẽ phải là điều kiện và nhu cầu hiển nhiên để đảm bảo lợi ích quốc gia.

“Đối với các nước này, tuân thủ luật pháp quốc tế đã được đồng thuận và áp dụng lên tất cả mọi người là yêu cầu cần thiết để họ đảm bảo sự độc lập và chủ quyền”, PGS Batongbacal nhấn mạnh.

Việt Nam không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông: Cần cơ sở pháp lý

Liên quan đến công hàm mới nhất gửi Liên Hiệp Quốc, tại họp báo chiều ngày 9 tháng 4, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết việc lưu hành công hàm tại Liên Hiệp Quốc là điều bình thường, thể hiện lại lập trường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

“Lập trường nhất quán của Việt Nam đã được thể hiện đầy đủ tại công hàm này”, bà Hằng nói.

Đồng thời đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là “giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, như đã được thể hiện trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982”, phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố.

Nhiều học giả quốc tế cũng nhận xét, công hàm ngày 30.3 của Việt Nam là động thái đúng đắn, phù hợp và cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong vấn đề biển đảo.

GS Thayer nhấn mạnh, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động nào của Bắc Kinh khi nước này có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Theo chuyên gia này, việc cung cấp “một dấu vết pháp lý trên giấy” là rất cần thiết để chứng minh tính nhất quán của Việt Nam trong lập trường về Biển Đông, đặc biệt là trong một thời gian dài.

Cả hai GS Thayer lẫn PGS Batongbacal đều cho rằng, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Mặc dù vậy, để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác.

PGS Batongbacal nhận định, những vi phạm mới nhất của Trung Quốc như vụ đưa giàn khoan vào khu vực tranh chấp hàng hải, triển khai nghiên cứu khoa học trên biển ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và mới đây nhất là đâm chìm tàu cá Việt Nam, tất cả đều có thể là cơ sở cho những đơn kiện trong tương lai.

Tuy vậy, cũng cần nói thêm rằng đơn kiện chỉ là một công cụ pháp lý. Biện pháp này phải được cân nhắc hết sức cẩn thận và phối hợp với những hành động ngoại giao và chính trị. Tất cả phải được tiến hành đồng thời và độc lập trong giai đoạn xét xử vụ kiện. Bên thưa kiện phải xem nó là một phần trong khuôn khổ một chiến lược rộng lớn hơn.

“Vì thế, bất kỳ động thái hay diễn biến nào trong vụ kiện cũng phải được phối hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như chính sách ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ song phương này", - PGS Batongbacal kết luận

Theo Sputnik News
0