Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 1, 2022

Mỹ công bố tài liệu bác bỏ "đường chín đoạn" của Trung Quốc, video



Biển Đông tuần này tiếp tục dậy sóng khi Mỹ công bố tài liệu bác bỏ "tuyên bố chủ quyền" của Trung Quốc ở biển Đông, trong đó có đề cập đến Việt Nam, Philippines,... Ngay sau đó, Bộ ngoại giao Việt Nam cũng đã lên tiếng về vấn đề này. Nguồn: FBNC
0

Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Quân đội Mỹ chuẩn bị gì cho chiến tranh với Trung Quốc?

TTO - Xung đột quân sự Mỹ - Trung là điều không ai mong đợi, nhưng các nhà hoạch định chính sách quân sự của cả hai nước không thể ngồi yên và cầu nguyện cho điều tốt nhất.

Thủy quân lục chiến Mỹ tập trận ở Chonburi, Thái Lan vào tháng 2-2020 - Ảnh: AP


0

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

Điều gì có thể dẫn tới chiến tranh Mỹ – Trung?

Điều gì có thể dẫn tới chiến tranh Mỹ – Trung?

(Project Syndicate) Khi Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị gần đây kêu gọi cài đặt lại quan hệ song phương với Hoa Kỳ, một phát ngôn viên của Nhà Trắng đã trả lời rằng Hoa Kỳ coi quan hệ Mỹ – Trung là một trong những cuộc cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi vị thế của sức mạnh. Rõ ràng là chính quyền của Tổng thống Joe Biden đã không đảo ngược các chính sách của Trump đối với Trung Quốc.
0

Mỹ sẽ triển khai tên lửa chống Trung Quốc dọc theo chuỗi đảo thứ nhất

Mỹ sẽ triển khai tên lửa chống Trung Quốc dọc theo chuỗi đảo thứ nhất

(Nikkei Asia) Mỹ sẽ tăng cường khả năng răn đe bằng vũ khí thông thường chống lại Trung Quốc bằng cách thiết lập một mạng lưới tên lửa tấn công chính xác dọc theo cái gọi là “chuỗi đảo thứ nhất” như một phần của khoản chi 27,4 tỷ USD sẽ được xem xét cho chiến trường Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong sáu năm tới.
0

Điều gì ở biển Đông khiến Trung Quốc cuồng vọng? (Mp3)

Tranh chấp Biển Đông luôn là chủ đề nóng không chỉ đối với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà đã trở thành vấn đề quốc tế. Trong khi Biển Đông được xem là con đường sinh mệnh của nền kinh tế và giúp Trung Quốc thực hiện tham vọng bá chủ toàn cầu, nó còn đóng vai trò thương mại, địa chiến lược quan trọng đối với các nước khu vực và thế giới
0

Thứ Ba, 2 tháng 3, 2021

Sai lầm trong chính sách của TQ gây nguy hiểm cho thế giới như thế nào? [Mp3]

Các sai lầm trong chính sách bá chủ thế giới của Trung Quốc như âm mưu độc chiếm biển Đông, Vành đai - Con đường gây ra hàng loạt vấn đề nghiêm trọng cho thế giới.
0

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021

Bộ Ngoại giao nói về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 gần biên giới Việt Nam

(Thanh Niên - 25/02/2021) Sau thông tin về việc Trung Quốc xây căn cứ tên lửa đất đối không ở tỉnh Quảng Tây, cách biên giới Việt Nam 20 km, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 tại Vân Nam.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo
0

Việt Nam muốn gì từ Mỹ trong giải quyết tranh chấp Biển Đông?

(The Diplomat - 04/01/2021) Mặc dù luôn tìm kiếm sự cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, dường như Việt Nam đang mong muốn có quan hệ an ninh vững chắc hơn với Washington.
0

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

Việt Nam tăng cường phòng thủ chống Trung Quốc ở Trường Sa

(SCMP - 22.2.2021) Báo cáo của một tổ chức nghiên cứu chính sách có trụ sở tại Washington cho biết Việt Nam đã xây dựng hệ thống phòng thủ ở quần đảo Trường Sa trong hai năm qua để “đảm bảo có thể giáng đòn vào các cơ sở của Trung Quốc” tại quần đảo tranh chấp này.
0

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2021

Sở hữu Hải quân hiện đại nhất Đông Nam Á, Việt Nam làm gì để thành cường quốc biển?

Sau thành công của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2045 thành cường quốc biển. Theo chuyên gia, để giải quyết tình hình Biển Đông và đạt mục tiêu này, Việt Nam cần có chiến lược biển toàn diện, dựa trên ba trụ cột về kinh tế, an ninh – quốc phòng và hàng hải.
0

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Đằng sau chiến lược chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình.


Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình. Trong những năm 1970, Trung Quốc tập trung phần lớn nỗ lực vào việc đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Bắc Biển Đông và gần với Trung Quốc.

Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng Đá Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 là động thái gây bất ngờ. Trong khi đó, điểm nổi bật của những năm 1990 là chiến lược “xâm chiếm từ từ”, mà kết quả đáng chú ý là các cấu trúc được xây dựng tạm thời trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa ở phía Nam Biển Đông. Năm 1999, Bắc Kinh bắt đầu tìm cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đối với các nước khác ở vùng biển này trong các tháng mùa Hè, thể hiện quyền kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với khu vực này.

Xu hướng này lên đến đỉnh điểm trong kỷ nguyên Tập Cận Bình, khi Trung Quốc có những hành vi ứng xử trơ trẽn theo kiểu nước lớn. Việc Trung Quốc quấy rối các tàu nước ngoài đang đánh bắt cá hay khai thác tài nguyên, và thậm chí còn lao thẳng vào những tàu này, đã trở nên phổ biến ở khu vực phía Nam “đường 9 đoạn” do chính Trung Quốc vạch ra.

Tất nhiên, Tập Cận Bình đã giám sát việc xây dựng ba căn cứ khá lớn trên các bãi đá nhân tạo, tạo điều kiện cho sự hiện diện lâu dài của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở khu vực phía Nam Biển Đông. Các động thái phản đối của cộng đồng quốc tế – bao gồm khiếu nại của các nước Đông Nam Á, phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đối với Trung Quốc và một loạt hoạt động tự do hàng hải của Mỹ – cũng không thể ngăn chặn các hành động nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.

Việc đạt được mục tiêu ở Biển Đông sẽ mang lại cho Bắc Kinh những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị và chiến lược. Họ sẽ có quyền ưu tiên đối với các nguồn tài nguyên trên biển như cá và các nguồn tài nguyên dưới đáy biển như dầu lửa, khí đốt và khoáng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể củng cố tính hợp pháp của mình bằng cách rêu rao với công chúng trong nước rằng Trung Quốc đã đánh bại các nỗ lực nước ngoài nhằm xâm chiếm lãnh thổ “của họ”. Và Trung Quốc sẽ cải thiện đáng kể vị thế chiến lược của mình trong khu vực.

Yêu sách của Trung Quốc mơ hồ một cách có chủ ý. Bắc Kinh từ chối lập quan điểm của mình theo các điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó Trung Quốc là một bên ký kết. Thay vào đó, họ vạch ra “đường 9 đoạn” và thường xuyên lặp lại tuyên bố về cái mà họ cho là chủ quyền không thể tranh cãi đối với tất cả các hòn đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận.

Xét tới những hành vi ứng xử thực tế của các quan chức Chính phủ Trung Quốc và các đội tàu đánh cá được huy động tham gia lực lượng quân sự của nước này ở Biển Đông, có thể thấy Bắc Kinh dường như đang cân nhắc coi phần lớn vùng biển này là lãnh hải của họ.

Theo UNCLOS, các tàu chiến nước ngoài được phép đi qua mà không gây hại tới các vùng lãnh hải của các nước, nhưng Trung Quốc thường xuyên lên án việc các tàu chiến Mỹ đi qua khu vực Biển Đông. Các hành động của Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh tin rằng nước này có quyền đưa ra các quy định ở Biển Đông, sở hữu các nguồn tài nguyên ở biển và ngăn chặn máy bay và tàu chiến nước ngoài.

Thành công của Trung Quốc bắt nguồn chủ yếu từ ba đặc điểm trong chính sách Biển Đông của nước này. Thứ nhất là ảnh hưởng đòn bẩy. Để đạt được các mục tiêu chính trị, Bắc Kinh đã lợi dụng ưu thế là một nước lớn mạnh hơn so với các đối thủ. Trung Quốc đã khai thác sức mạnh công nghiệp, đặc biệt là năng lực đóng tàu, để triển khai đến Biển Đông một lực lượng gồm các tàu chiến, tàu hải cảnh và máy bay quân sự đông đảo hơn bất kỳ nước nào có tuyên bố chủ quyền ở đây. Hơn nữa, Bắc Kinh thường xuyên kêu gọi các đội tàu đánh cá dân sự của mình, vốn hùng hậu nhất ở Biển Đông, thực hiện sứ mệnh hỗ trợ các mục tiêu chiến lược quốc gia.

Quan điểm của Bắc Kinh về các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc song phương, giữa Trung Quốc với một nước khác có yêu sách, và sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Trung Quốc lớn mạnh hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ nào có yêu sách và điều này tạo lợi thế cho họ trong các cuộc đàm phán. Bắc Kinh phản đối mạnh mẽ bất kỳ gợi ý nào về các cuộc đàm phán đa phương, vốn cho phép ít nhất hai nước có yêu sách phối hợp với nhau để đối trọng với Trung Quốc. Sự phụ thuộc của các nước trong khu vực vào thương mại và đầu tư của Trung Quốc đã đặt Bắc Kinh vào vị thế có thể yêu cầu các bên làm theo ý mình.

Ảnh hưởng của Trung Quốc thể hiện rõ trong việc Campuchia ngăn chặn những chỉ trích về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đã gây sức ép kinh tế đối với Philippines trước khi Tổng thống Duterte thể hiện ý định sẵn sàng đánh đổi cơ hội bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của nước mình để nhận thêm viện trợ kinh tế từ Bắc Kinh. Mặc dù là nước mạnh nhất trong số các quốc gia bị coi là đối thủ của Trung Quốc vì cũng có tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, nhưng Việt Nam lại phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc và do đó rơi vào những xung đột về lợi ích.

Đặc điểm thứ hai đóng góp vào thành công của Trung Quốc là những cam kết giả tạo. Mặc dù tham gia các hoạt động mang tính côn đồ ở Biển Đông, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn luôn cam kết tuân thủ nguyên tắc hòa bình, hài hòa và đạo đức. Bắc Kinh luôn tuyên bố rằng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và không xâm lược hay bắt nạt các nước khác, ngay cả khi là một siêu cường. Để chứng minh điều này, Bắc Kinh đã thể hiện sự ủng hộ đối với việc giảm bớt căng thẳng, ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và tham gia các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Những hành động này nhằm che đậy ý định thực sự của Trung Quốc và dẫn tới quan điểm lạc quan thiếu căn cứ rằng các ví dụ về hành vi ứng xử hung hăng của Trung Quốc là những hiện tượng bất thường, bị giới hạn trong một số trường hợp cụ thể hay do một bên nào đó thực hiện mà chưa được phép của Bắc Kinh. Sự nhìn nhận vấn đề theo hướng này sẽ làm gia tăng bất đồng giữa các nước trong khu vực về cách thức đối phó với Trung Quốc, tạo cơ hội cho Bắc Kinh gây chia rẽ và chinh phục các nước.

Tuy nhiên, cách giải thích thuyết phục hơn gồm hai ý. Một là, Bắc Kinh có lợi ích rõ ràng trong việc che giấu các hành động của mình dưới vỏ bọc nhân từ nhằm hạn chế sự hợp tác an ninh giữa các nước đang cảm thấy bị đe dọa và muốn chống lại Trung Quốc. Hai là, do tư tưởng văn hóa-chính trị truyền thống và quyết tâm cai trị, Trung Quốc cảm thấy sức ép buộc họ phải duy trì vai trò lãnh đạo hợp pháp của mình ở trong nước.

Điều này dẫn tới việc Chính phủ Trung Quốc khăng khăng cho rằng thế giới không có gì phải lo ngại về chính sách đối ngoại của họ, ngay cả khi sự bất an của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở trong nước đã thúc đẩy Bắc Kinh thể hiện các quan điểm dân tộc chủ nghĩa khiến căng thẳng với các nước khác gia tăng.

Do vậy, những sự bảo đảm mà Bắc Kinh đưa ra xét cho cùng đều không có cơ sở. DOC bao gồm các cam kết không đưa người đến sinh sống trên các cấu trúc địa hình hiện không có người ở và không tham gia các hoạt động gây căng thẳng hay làm leo thang xung đột, những điều mà Trung Quốc rõ ràng đã phớt lờ khi đổ cát lên các rạn san hô để xây dựng các căn cứ quân sự ở một khu vực rộng tới hơn 1.200 ha. Trong khi đó, các cuộc đàm phán về COC đã kéo dài 24 năm và Bắc Kinh vẫn phản đối những từ ngữ mà có thể vô hiệu hóa các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời thúc đẩy một điều khoản hạn chế các hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển Đông.

Các tàu thuyền của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn được nhiều nước chấp nhận về các hành vi chuyên nghiệp và an toàn theo quy định của Công ước quốc tế năm 1972 về việc ngăn chặn các vụ va chạm trên biển và Bộ quy tắc tránh va chạm ngoài ý muốn trên biển (CUES) năm 2014. Ví dụ điển hình là việc các quan chức Trung Quốc bác bỏ mọi hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông, ngay cả khi đối mặt với những thực tế phản ánh điều ngược lại như việc tàu Trung Quốc cắt đứt dây cáp của các tàu nước khác năm 2011.

Đặc điểm thứ ba là điều chỉnhcác hành vi hung hăng. Trung Quốc kiên trì thúc đẩy các lợi ích của nước này ở Biển Đông, gây phương hại đến lợi ích của các nước khác. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thận trọng lựa chọn địa điểm, thời điểm và phương thức gây áp lực để hạn chế tối đa các phản ứng trái ngược. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhận định chính xác rằng Mỹ sẽ không gây chiến với Trung Quốc để ngăn chặn việc nước này xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo đá chiếm đóng.

Việt Nam là nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bị thiệt hại nhiều nhất do các cuộc tấn công bạo lực của Trung Quốc. Việt Nam không có thỏa thuận hợp tác an ninh với Mỹ. Bắc Kinh đã lựa chọn tháng 4/2020, thời điểm đỉnh dịch, để đưa ra tuyên bố về cái mà các phương tiện truyền thông của nước này gọi là “động thái hành chính quan trọng” – thành lập hai quận mới ở Biển Đông, trong đó có một quận quản lý cả khu vực đảo Trung Sa, vốn trên thực tế là một đảo san hô chìm cách mặt biển từ 9-18 m.

Chính phủ Trung Quốc tổ chức lực lượng thành ba cấp độ để thực thi chính sách trên biển: tàu Hải quân PLA, tàu hải cảnh và các tàu đánh cá dân sự. Nhìn chung, Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng lực lượng ở cấp độ thấp nhất để hoàn thành nhiệm vụ nhằm giảm dần ấn tượng của các nước về họ như một nước chuyên bắt nạt. Ví dụ, trong những tháng gần đây, một loạt tàu đánh cá của Trung Quốc, tắt hết các hệ thống tiếp sóng vô tuyến và không tham gia đánh bắt cá, đã bao vây đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng trong một nỗ lực rõ ràng nhằm đe dọa Manila và buộc họ phải rút lui.

Chiến thuật đâm đụng phổ biến hiện nay của Trung Quốc ít có tính khiêu khích hơn so với việc nổ súng và thường tỏ ra hiệu quả trong việc giành chiến thắng trên biển. Thậm chí, các tàu Trung Quốc đã nhiều lần đe dọa đụng độ để xua đuổi các tàu chiến của Hải quân Mỹ. Việc Trung Quốc sử dụng tia laser để quấy nhiễu máy bay của các nước khác là một biểu hiện mới của hành vi ứng xử của Bắc Kinh. Các tia laser gây nguy hiểm cho các máy bay chứ không trực tiếp gây chết người.

Chính sách hiện nay của Trung Quốc là tiến hành và bác bỏ. Sau khi Hải quân Mỹ cáo buộc một tàu khu trục của Trung Quốc đã chiếu tia laser vào máy bay P-8 của Mỹ hồi tháng 2/2020 khi máy bay này đang bay qua không phận quốc tế trên biển Philippines, Bộ Quốc phòng Trung Quốc bác bỏ và cho rằng đó là một cáo buộc vô căn cứ. Vài ngày sau đó, tờ “Thời báo Hoàn cầu” trực thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng tải một bài viết, trong đó các chuyên gia quân sự Trung Quốc ủng hộ việc sử dụng tia laser để xua đuổi tàu chiến Mỹ khỏi khu vực Biển Đông.

Những đặc điểm này cũng được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cụ thể là việc cam kết ủng hộ hòa bình và công lý, lên tiếng bác bỏ các hành vi ứng xử mang tính côn đồ hay các chính sách làm tổn hại các nước khác, ủng hộ chiến thuật bầy đàn và tấn công bằng tia laser ở biển Hoa Đông, gây sức ép kinh tế và đe dọa trừng phạt các nước khác vì đã thách thức lập trường của Trung Quốc về các vấn đề như Đài Loan, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đặc quyền của Trung Quốc như một nước lớn, hay bắt giữ Giám đốc tài chính của tập đoàn Hoa Vi Mạnh Vãn Châu.

Việc thay đổi quỹ đạo trên Biển Đông đòi hỏi các nước trong khu vực sẽ phải nỗ lực hơn nữa để xác định liệu nguy cơ dài hạn của việc Trung Quốc sở hữu tuyến đường biển quan trọng này có vượt xa những rủi ro về kinh tế lẫn quân sự hay không và có lập trường mạnh mẽ hơn trong việc chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc.

Nếu được lựa chọn, Mỹ có thể đóng một vai trò quan trọng mang tính xây dựng bằng cách: một là đi đầu trong việc phản đối các hành động của Trung Quốc, vốn đi ngược lại UNCLOS và phán quyết của PCA năm 2016; và hai là nỗ lực xây dựng một giải pháp toàn diện đối với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông mà ít nhất sẽ thách thức và cô lập Trung Quốc, thay vì cho phép nước này chiếm ưu thế bằng cách lợi dụng sự lơ đễnh của cộng đồng quốc tế. Nếu không lựa chọn Mỹ, khu vực này hẳn là đang đánh cược rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng quyền kiểm soát đối với Biển Đông để thúc đẩy các lợi ích của mình và trừng phạt các đối thủ.

Bài viết của tác giả Denny Roy, nghiên cứu viên cao cấp, giám sát viên tại Chương trình học bổng Posco, Chương trình Nghiên cứu tại Trung tâm Đông-Tây. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

'Tứ giác kim cương' củng cố liên thủ đối phó Trung Quốc

Việc Ấn Độ và Úc vừa ký kết thỏa thuận hợp tác quân sự được xem là bước tiến mới trong sự phối hợp của tứ giác an ninh, gồm Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Úc, để đối phó với Trung Quốc.


Các tàu chiến Ấn Độ và Úc trong cuộc tập trận AUSINDEX năm 2019

Tuần qua, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và người đồng cấp Úc Scott Morrison đã có cuộc họp thượng đỉnh trực tuyến. Qua đó, hai bên thông qua nhiều hiệp định quân sự quan trọng như Thỏa thuận hỗ trợ hậu cần (LEMOA), Thỏa thuận triển khai khoa học và công nghệ quốc phòng (DST)… Cả hai đều khẳng định việc tăng cường thỏa thuận là nhằm hướng đến cùng cam kết hợp tác vì an ninh, ổn định của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Indo-Pacific).

Thời gian qua, các nước trong tứ giác an ninh chia sẻ chung tầm nhìn về Indo-Pacific với nội dung cốt lõi là nhằm đảm bảo an ninh chung trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có nhiều hành động gây quan ngại trong khu vực.

Bổ sung thỏa thuận quân sự

Trả lời Thanh Niên ngày 7.6, TS Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) nhận định: Việc Ấn Độ và Úc tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tuyến và thông qua Thỏa thuận hỗ trợ hậu cần (LEMOA) có ý nghĩa quan trọng. Bởi thỏa thuận này là bằng chứng cho thấy bước tiến triển của tứ giác an ninh (hay còn gọi là “tứ giác kim cương”).

Gần đây, việc hợp tác của tứ giác an ninh được cho là tiến triển nhưng làm sao để đo lường sự tiến triển đó thì vẫn đang gây tranh cãi, nhất là khi đến giờ vẫn chưa có một thỏa thuận liên minh nào được ký kết. Mà khi không có hiệp ước liên minh nào thì làm thế nào đo lường tiến trình hợp tác?

Để đo lường tiến trình hợp tác trong trường hợp này thì có thể xét đến các thỏa thuận để tạo điều kiện sẵn sàng chiến đấu cùng nhau. Các thỏa thuận như thế hướng đến việc chia sẻ thông tin, cho phép truy cập nguồn dữ liệu của nhau, chia sẻ việc cung cấp nguồn lực.

Trong đó, để chia sẻ thông tin, Hiệp định chia sẻ thông tin tình báo quân sự (G-SOMIA) đã có các ký kết song phương gồm: Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Ấn Độ, Mỹ - Úc, Nhật Bản - Ấn Độ. Nhật Bản và Úc không có hiệp định song phương tương tự G-SOMIA, nhưng liên minh tình báo Ngũ nhãn (gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, New Zealand) lại có thỏa thuận hợp tác tình báo với Nhật Bản. Dựa vào khung hợp tác này, Tokyo và Canberra có thể chia sẻ thông tin tình báo.

Để cùng chia sẻ nguồn lực hậu cần và truy cập vào cơ sở dữ liệu của nhau, Hiệp định Thu nhận và dịch vụ tương hỗ (ACSA) cũng đã có các ký kết song phương gồm: Mỹ - Nhật, Mỹ - Úc, Nhật - Úc. Về mặt lý thuyết, Mỹ và Ấn Độ chưa phải là đồng minh và hai nước cũng chưa ký kết ACSA. Ấn Độ cũng chưa ký kết ACSA với Nhật Bản. Giờ đây, Ấn Độ vừa ký kết LEMOA với Úc. Mục đích là giống nhau nên LEMOA có thể xem là một ACSA phiên bản Ấn Độ để New Delhi ký kết với các bên khác như Tokyo hay Washington.


Sơ lược về các thỏa thuận hợp tác tình báo và hậu cần của “tứ giác kim cương”

Khi đó, Mỹ - Nhật - Úc - Ấn sẽ có đủ hệ thống thỏa thuận chia sẻ thông tin tình báo, hậu cần như một mạng lưới đồng minh ở Indo-Pacific nhằm đối phó những mối nguy từ Trung Quốc như định hướng của “tứ giác kim cương”.

Thường xuyên tập trận chung

Thực tế thời gian qua, các nước trong “tứ giác kim cương” liên tục có những hoạt động chung ở Indo-Pacific nói chung, Biển Đông nói riêng.

Cuối tháng 5, Mỹ điều động 2 oanh tạc cơ B-1 Lancer tham gia tập trận cùng 16 máy bay tiêm kích, bao gồm 2 loại F-15 và F-2 của Nhật Bản, ở khu vực vùng biển xung quanh quần đảo Okinawa. Tháng 6.2019, tàu chiến JS Izumo của Nhật Bản đã có cuộc tập trận chung với hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan ở khu vực Biển Đông.

Cũng trên Biển Đông, tháng 4.2020, tàu hộ tống HMAS Parramatta thuộc Úc đã tập trận cùng tàu tấn công đổ bộ USS America, tàu tuần dương USS Bunker Hill và tàu khu trục USS Barry của Mỹ. Tháng 9.2019, tàu chiến của Nhật Bản, Ấn Độ và Mỹ tổ chức tập trận chung thường niên Malabar tại vùng biển ngoài khơi thành phố Sasebo (Nhật Bản).

Về tập trận song phương trong nhóm “tứ giác kim cương”, năm 2019, Úc đã điều động hạm đội tàu chiến lớn nhất nước này kể từ sau Thế chiến 2 tham gia cuộc tập trận chung với Ấn Độ mang tên AUSINDEX.

Không chỉ vậy, một số thành viên trong nhóm “tứ giác kim cương” còn cùng nhau tổ chức tập trận đa phương với các nước khác trong khu vực. Tháng 5.2019, Hạm đội 7 của Mỹ thông báo tàu chiến nước này cùng chiến hạm của Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc có cuộc tập trận chung đầu tiên ở gần đảo Guam. Cũng trong tháng 5.2019, hải quân 4 nước gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines điều 6 chiến hạm tập trận chung trên Biển Đông.

Các cuộc tập trận chung có sự tham gia của các nước thuộc “bộ tứ kim cương” trên Biển Đông luôn được giới chuyên gia đánh giá như động thái thách thức tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung Quốc tại đây.

Ấn - Trung nhất trí giải quyết tranh chấp biên giới

Ấn Độ và Trung Quốc đang hành động nhằm giải quyết tình trạng căng thẳng và ẩu đả kéo dài cả tháng qua dọc theo đường kiểm soát thực tế (LAC), cụ thể là tại 4 điểm ở phía đông Ladakh, theo báo Hindustan Times hôm qua 7.6 dẫn nguồn thạo tin.

Trước đó, trung tướng Harinder Singh, tư lệnh quân đoàn 14 đóng tại Leh thuộc khu vực Ladakh, dẫn đầu phái đoàn Ấn Độ hội đàm với đoàn của thiếu tướng Liễu Lâm, chỉ huy quân khu Nam Tân Cương, tại Moldo-Chushul ở bên phần Trung Quốc ngày 6.6. Cuộc đối thoại kéo dài 7 giờ đánh dấu lần đầu tiên diễn ra đối thoại ở cấp tướng kể từ khi vụ chạm trán giữa binh sĩ tuần tra hai nước xảy ra gần hồ Pangong trên Himalaya ngày 5.5.

Hai bên đồng ý giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và dựa trên các thỏa thuận song phương đã ký kết, đồng thời nhất trí rằng quân đội Ấn - Trung không thể để tình hình leo thang dọc theo LAC như vừa qua. Bộ Ngoại giao Ấn Độ hôm qua cũng ra thông cáo với cùng nội dung.

H.G/ Báo Thanh Niên
0

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Mỹ gửi công hàm lên LHQ phản đối Trung Quốc ở Biển Đông


Đại sứ Mỹ tại LHQ gửi công hàm cho Tổng thư ký Antonio Guterres, khẳng định yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông "không phù hợp với luật pháp quốc tế".

"Hôm nay, Mỹ phản đối các yêu sách hàng hải phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông tại Liên Hợp Quốc. Chúng tôi coi những yêu sách này là bất hợp pháp và nguy hiểm. Các quốc gia thành viên phải đoàn kết để duy trì luật pháp quốc tế và tự do trên biển", Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ngày 2/6 viết trên Twitter.


Công hàm do Mỹ gửi lên LHQ để phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông

Ông đăng kèm công hàm do Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Kelly Craft gửi lên Tổng thư ký Antonio Guterres, nói về công hàm số CML/14/2019 Trung Quốc gửi cho Liên Hợp Quốc ngày 12/12/2019 để phản đối đệ trình của Malaysia lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) cùng ngày.

"Mỹ xác định các yêu sách hàng hải này không phù hợp với luật pháp quốc tế theo Công ước về Luật Biển 1982", công hàm có đoạn viết. Mỹ yêu cầu Liên Hợp Quốc gửi công hàm phản đối này đến tất cả thành viên, đồng thời đăng tải trên trang web của văn phòng pháp chế.

Trong công hàm ngày 12/12/2019, Trung Quốc cho biết nước này "có chủ quyền" với quần đảo ở Biển Đông, "bao gồm quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa". Trung Quốc cũng nhắc đến "quyền lịch sử" ở Biển Đông.

Quần đảo Nam Sa và Tây Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 30/3, Việt Nam gửi công hàm lên LHQ, phản đối công hàm nói trên của Trung Quốc, khẳng định yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
0

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Trung Quốc lập ADIZ ở Biển Đông: Việt Nam cẩn thận

Trung Quốc đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) Biển Đông bao gồm các đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 2010 và chỉ chờ giải quyết xong các vấn đề về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao để tuyên bố với thế giới, nguồn tin từ Quân giải phóng nhân dân PLA cho biết.

Theo các chuyên gia, nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước (trong đó có Việt Nam) sẽ buộc phải lựa chọn, không chỉ là chơi với ai giữa Mỹ hay Trung Quốc, mà còn là giải quyết mâu thuẫn mối quan hệ kinh tế giữa các nươc này với Trung Quốc cùng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia của chính mình.

Lộ tin Trung Quốc đã lập xong kế hoạch ADIZ ở Biển Đông từ lâu

Bắc Kinh đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông kể từ năm 2010. Cũng trong năm đó, Trung Quốc cho biết họ đang xem xét việc đưa ra các biện pháp kiểm soát không phận tương tự trên Biển Đông, một động thái bị chỉ trích rộng rãi trên toàn thế giới. Bài phân tích của tác giả Minnie Chan đăng trên tờ Bưu điện Nam Hoa Buổi sáng ngày 31/5 cho biết.

ADIZ dự kiến bao gồm các chuỗi đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa (của Việt Nam), theo một nguồn tin từ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nguồn tin cho SCMP biết thêm rằng chính quyền Trung Quốc đang chờ thời điểm thích hợp để công bố về kế hoạch này.

Trong khi Bắc Kinh có thể giữ kín về vấn đề này, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết vào ngày 4 tháng 5 rằng họ đã biết về các kế hoạch của Trung Quốc Đại lục.

Một Vùng nhận dạng phòng không là không phận trên một khu vực không thể tranh cãi về đất hoặc nước, trong đó việc giám sát và kiểm soát máy bay ra vào được thực hiện vì lợi ích của an ninh quốc gia. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi như khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Trong khi nhiều quốc gia có ADIZ, khái niệm này không được xác định hoặc quy định bởi bất kỳ điều ước hoặc cơ quan quốc tế nào.

Giới quan sát quân sự cho biết thông báo về ADIZ tiếp theo của Trung Quốc sẽ làm gia tăng căng thẳng với Hoa Kỳ và có thể gây ra tổn hại không thể khắc phục đối với mối quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Lu Li-Shih, cựu giảng viên của Học viện Hải quân Đài Loan tại Cao Hùng, nói rằng việc xây dựng và phát triển các đảo nhân tạo - đặc biệt là các đường băng và hệ thống radar được xây dựng trên các rạn san hô đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn - đã diễn ra trong nhiều năm qua là một phần trong kế hoạch ADIZ của Bắc Kinh.

“Hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã triển khai máy bay cảnh báo sớm KJ-500 và máy bay tuần tra chống ngầm KQ-200 tại đá Chữ Thập”, ông nói, đề cập đến những bức ảnh được chụp bởi ImageSat International của Israel và Sáng kiến ​​minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS).

Chuyên gia này cũng nói rõ ràng rằng các cơ sở có điều hòa không khí đang được xây dựng trên rạn san hô, cho thấy máy bay chiến đấu - cần được bảo vệ khỏi nhiệt độ cao, độ ẩm và độ mặn trong khu vực - cũng sẽ sớm được triển khai ở đó.

“Sau khi các tiêm kích chiến đấu PLA đến, chúng có thể tham gia cùng các máy bay cảnh báo sớm và máy bay chống ngầm để thực hiện hoạt động tuần tra trên ADIZ”, Lu Li-Shih nhận xét.

Ông Li Jie, một chuyên gia Hải quân làm việc tại Bắc Kinh và là sĩ quan cấp cao đã nghỉ hưu của PLA, nói rằng các nước thường chờ đợi để công bố thành lập ADIZ cho đến khi họ có thiết bị phát hiện cần thiết, cũng như đủ khả năng chiến đấu và cơ sở hạ tầng khác để quản lý nó.

“Nhưng nếu có thời cơ, Bắc Kinh có thể đưa ra thông báo sớm hơn”, sĩ quan cao cấp đã về hưu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc nói.

“Bắc Kinh đã tuyên bố về ADIZ ở Biển Hoa Đông ngay cả khi PLA chưa có khả năng phát hiện, theo dõi và trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập”, ông Li Jie khẳng định.


Vì sao Trung Quốc hoãn công bố ADIZ?

Một nguồn tin quân sự khác của Trung Quốc, người đề nghị giấu tên vì tính nhạy cảm của vấn đề, nói rằng cũng như công tác chuẩn bị, Bắc Kinh nhận thức rằng Biển Đông lớn hơn Biển Hoa Đông rất nhiều và do đó sẽ cần nguồn lực lớn hơn để tuần tra.

Theo chuyên gia Hải quân Li Jie, Bắc Kinh đã ngần ngại trong việc tuyên bố ADIZ ở Biển Đông do một số cân nhắc về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao.

“Nhưng vấn đề thực tế nhất là PLA trước đây không có khả năng giao tranh máy bay chiến đấu để trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập ở Biển Đông, nơi có diện tích gấp nhiều lần Biển Hoa Đông và chi phí phải trả để hỗ trợ ADIZ sẽ rất lớn”, nguồn tin cho biết.

Vào năm 2010, chính quyền Trung Quốc đã nói với phái đoàn Nhật Bản khi đó đến thăm Bắc Kinh rằng họ đang xem xét việc thành lập ADIZ trên Biển Hoa Đông. Theo báo cáo năm 2017 của CSIS, Bắc Kinh cho biết vấn đề này cần được thảo luận khi kế hoạch của họ chồng chéo với khu vực phòng không Nhật Bản.

Tin tức này đã gây phẫn nộ đối với Tokyo, khiến Nhật Bản phản ứng bằng cách thành lập một ADIZ cho riêng mình, bao gồm Quần đảo Senkaku - được biết đến với tên Quần đảo Điếu Ngư trong tiếng Quan Thoại.

Căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh leo thang sau khi Tokyo mua Senkaku từ một chủ sở hữu tư nhân vào tháng 9 năm 2012, khiến Bắc Kinh công bố ADIZ vào tháng 11 năm sau.

“Trung Quốc tuyên bố thành lập ADIZ đầu tiên sớm hơn dự định vì cần phải khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư”, ông Li nói.

Nhưng động thái này đã gặp phải phản ứng dữ dội, từ cả Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng như nhiều nước trong khu vực.

Trong khi quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã được cải thiện trong những năm gần đây, căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington vẫn đang gia tăng đều đặn, với việc hai bên đụng độ trên nhiều mặt trận - từ thương mại và công nghệ, đến các vấn đề quân sự và tư tưởng.

Mối quan hệ của hai bên còn chịu áp lực lớn hơn nữa do hậu quả của đại dịch Covid-19, khi các quan chức cấp cao đưa ra các cáo buộc và chỉ trích lẫn nhau về cách xử lý khủng hoảng và nguồn gốc của coronavirus.

Tháng trước, các máy bay quân sự của Mỹ, bao gồm các máy bay trinh sát EP-3E và RC-135U, đã thực hiện ít nhất 9 cuộc tập trận và hoạt động tuần tra trên Biển Đông, theo trang web theo dõi hàng không Aircraft Spots.

Trung Quốc đã tìm cách xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nước láng giềng Đông Nam Á trong những năm gần đây, nhưng Drew Thompson, một nghiên cứu viên cao cấp của Trường Chính sách công Lee Kuan Yew, Đại học Quốc gia Singapore, cho rằng sẽ chỉ có hại cho Trung Quốc nếu nước này tuyên bố Biển Đông là ADIZ thứ hai.

“Tuyên bố như vậy sẽ làm tổn hại nghiêm trọng mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á, thống nhất với nhau trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc, bao gồm việc cải tạo đất và quân sự hóa các đảo”, ông nói.

Nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước sẽ buộc phải lựa chọn, không phải giữa Mỹ và Trung Quốc, mà là giữa mối quan hệ kinh tế của họ với Trung Quốc và chủ quyền quốc gia của chính họ.

Việt Nam nêu lo ngại về diễn biến phức tạp ở Biển Đông gần đây

Trước đó, ngày 29/5, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Thứ trưởng Lê Hoài Trung đã tham dự Hội nghị trực tuyến với người đồng cấp Trung Quốc La Chiếu Huy nhằm trao đổi về các vấn đề quan hệ song phương, diễn biến phức tạp trên Biển Đông thời gian gần đây cũng như chiến lược phát triển quan hệ giữa Hà Nội – Bắc Kinh hậu Covid-19.

Đáng chú ý, tại Hội nghị lần này, hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc nhất trí tiếp tục trao đổi về phối hợp trong công tác quản lý biên giới trên đất liền và tổ chức hoạt động kỷ niệm 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc và 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền. Hai nước thống nhất tiến hành kiểm tra liên hợp biên giới theo quy định của Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Nghị định thư phân giới cắm mốc vào thời điểm thích hợp.


Lê Hoài Trung

Đối với tình hình căng thẳng trên vùng biển có tranh chấp thời gian gần đây giữa hai nước, Thứ trưởng Lê Hoài Trung cũng đã có trao đổi thẳng thắn với ông La Chiếu Huy.

Hai bên nhất trí cần tiếp tục phát huy vai trò của các cơ chế đàm phán hiện nay đạt kết quả thực chất. Thứ trưởng Lê Hoài Trung nêu những lo ngại của Việt Nam trước các diễn biến phức tạp gần đây tại Biển Đông, nêu ý kiến về những quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982.

Đồng chí Lê Hoài Trung đề nghị hai bên thúc đẩy hợp tác và giải quyết bất đồng theo tinh thần tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của nhau, thỏa thuận, nhận thức chung giữa hai bên và luật pháp quốc tế.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý trên Biển Đông

Trước đó, như đã thông tin, trả lời cử tri về tình hình Biển Đông và những hành động của Việt Nam ứng phó với diễn biến phức tạp trên Biển Đông, tại công văn số 580,581 Bộ Ngoại giao nêu rõ, mặc dù đã có nhiều biện pháp phản đối ngoại giao, Bộ nhận định vấn đề Biển Đông đang ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường.

Cụ thể, từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10 năm 2019, “dưới danh nghĩa khảo sát khoa học”, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vốn được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Theo Bộ Ngoại giao, trước những diễn biến phức tạp vừa quan trên Biển Đông, công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo liên tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt tinh thần kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam.

“Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta ở vùng biển này ngày càng trở nên cấp thiết, luôn là ưu tiên hàng đầu trong xây dựng chính sách đối ngoại cũng như trong quá trình xử lý các vấn đề của đất nước”, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh.

Bộ Ngoại giao cho biết Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, về cả an ninh - quốc phòng, chính trị - ngoại giao, kinh tế - xã hội… nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Việt Nam cũng thực hiện các hoạt động hợp tác thăm dò khai thác dầu khí của các doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động đánh bắt bình thường của ngư dân diễn ra trên các vùng biển thuộc Việt Nam.

Để phản đối các hành vi vi phạm chủ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan đã đấu tranh ngoại giao ở nhiều cấp, thông qua các kênh khác nhau bằng nhiều hình thức.

Việt Nam cũng tăng cường tiếp xúc, đối thoại, trao đổi, trao công hàm, giao thiệp phản đối. Các hoạt động này được tiến hành trong các dịp tiếp xúc và chuyến thăm cấp cao, hội đàm song phương, trao đổi bên lề các hội nghị quốc tế và diễn đàn đa phương hoặc trong khuôn khổ các cơ chế đàm phán về vẩn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý và hoạt động vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, không tiếp diễn hành động làm phức tạp tình hình, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là hoạt động quân sự hóa, cản trở các hoạt động phát triển kinh tế biển của Việt Nam.

“Lập trường và chính nghĩa của ta được nhiều nước trong và ngoài khu vực ủng hộ, ghi nhận. Đồng thời, nhiều nước cũng có tiếng nói mạnh mẽ phê phán các hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ta”, Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Trong một diễn biến liên quan, ngày 31/5, quyền Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Indonesia Teuku Faizasyah xác nhận, nước này đã chính thức gửi công hàm lên Liên hợp quốc (LHQ) bác bỏ yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông.

Theo đó, bản đồ Đường chín đoạn (đường lưỡi bò) hàm ý yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý quốc tế và điều này cũng có nghĩa là đã vi phạm Công ước về Luật Biển quốc tế 1982 (UNCLOS).

Indonesia tuyên bố, Chính phủ Indonesia không ủng hộ các yêu sách trái với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982 mà phía Trung Quốc đưa ra. Lập trường nhất quán của Indonesia là bác bỏ các yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Biển Đông.

Đường lưỡi bò hay đường chín đoạn mà Trung Quốc đưa ra trong yêu sách bao gồm hầu hết các khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bất chấp sự phản đối của nhiều bên, đầu năm 2020, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính để quản lý các đảo tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Điều này đã bị Việt Nam, Indonesia, Philippines, Hoa Kỳ cùng nhiều quốc gia lên án mạnh mẽ.


Nguồn: https://vn.sputniknews.com/vietnam/202006019098699-trung-quoc-lap-adiZ-o-bien-dong-viet-nam-can-than/
0

Giải mã chiến lược cơ hội của Trung Quốc trong đại dịch COVID-19

Hành động nguy hiểm và dễ được thực hiện nhất của Trung Quốc sẽ là liên kết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với viện trợ y tế và kinh tế cho các nước đang phải đối phó với dịch COVID-19.


Bài viết của tác giả Abraham Denmark, Giám đốc Chương trình Châu Á tại Trung tâm học giả quốc tế Woodrow Wilson. Charles Edel, nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ, Đại học Sydney. Siddharth Mohandas, trợ lý nghiên cứu tại Trung tâm An ninh Mỹ mới. Bài viết được đăng trên tạp chí War on the Rocks

Mặc dù luận điệu gay gắt và những lời buộc tội lẫn nhau của Washington và Bắc Kinh trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hiện đang tràn ngập các tít báo, nhưng những gì đang diễn ra trên khắp khu vực ngoại vi phía Đông và phía Nam Trung Quốc trong vài tuần qua cũng không kém phần quan trọng. Vào thời điểm Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ca ngợi sự hào phóng trong cách tiếp cận của nước này đối với COVID-19, số lượng sự cố giữa Trung Quốc và các nước láng giềng lại đang có sự gia tăng đáng chú ý. Bắc Kinh đã sử dụng các lực lượng hải quân và bán quân sự cũng như các chiến dịch thông tin ngày càng tinh vi nhằm gia tăng căng thẳng, thăm dò phản ứng và đánh giá xem họ có thể “được nước lấn tới” đến mức nào.

Điều này làm dấy lên câu hỏi về ý định thực sự của Trung Quốc. Phải chăng Bắc Kinh đã thực sự đi theo cách tiếp cận hợp tác mới với các nước láng giềng? Họ có đang tìm cách lợi dụng sự hỗn loạn thời COVID-19 để khẳng định các lợi ích của mình một cách mạnh mẽ hơn hay không? Hay đây đơn giản chỉ là một sự mở rộng – dù mang tính cơ hội – của chiến lược vốn có từ trước đại dịch của Trung Quốc?

Đại dịch COVID-19 đã không làm suy giảm các hoạt động địa chính trị – trên thực tế, dịch bệnh dường như còn làm gia tăng những căng thẳng vốn có. Việc hiểu rõ liệu Trung Quốc có thay đổi chính sách đối ngoại hay không, và nếu có thì như thế nào, đóng vai trò trọng yếu trong việc đánh giá những diễn biến trong khu vực ngoại vi của Trung Quốc và những dự định tiếp theo của Bắc Kinh. Mỹ và các đồng minh cần trả lời những câu hỏi này nhằm chuẩn bị một phản ứng phù hợp. Điều này đến lượt nó lại đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ những hành động của Bắc Kinh trước cuộc khủng hoảng và suy nghĩ kỹ về những điều thực sự có thể báo hiệu sự thay đổi đáng kể hướng tới một chính sách đối ngoại mang tính đối đầu hơn.

Những động thái mới nhất của Trung Quốc

Các tàu và máy bay của Trung Quốc đã có mặt trong một loạt sự cố gần đây trên khắp vùng biển lân cận nước này. Mặc dù không có thương vong, nhưng những sự cố này chắc chắn đã đe dọa tới tính mạng con người. Xét tới việc những sự cố này có liên quan tới hai đối thủ chính của Trung Quốc trong khu vực là Nhật Bản và Việt Nam, cùng với đó là Đài Loan, cần xem xét tới khả năng Bắc Kinh coi đại dịch COVID-19 là cơ hội để thúc đẩy lợi thế trong giai đoạn các hoạt động địa chính trị bị xao nhãng.

Vào giữa tháng 3/2020, một phi đội máy bay của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã vượt qua đường trung tuyến ở eo biển Đài Loan – đường phân giới không chính thức giữa Đài Loan và Trung Quốc – trong một cuộc tập trận, nhằm mục đích đe dọa Đài Loan thông qua việc phô diễn năng lực của Trung Quốc trong việc tiến hành các hoạt động ban đêm, đồng thời thăm dò khả năng phản ứng của Đài Loan. Mặc dù các tàu và máy bay của PLA vẫn hoạt động trong khu vực sát Đài Loan trong nhiều năm, nhưng tần suất và sự quyết đoán của các hoạt động này đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây: Sự cố mới nhất này là lần thứ tư trong vòng 2 tháng, máy bay của PLA buộc Không quân Đài Loan phải cất cánh khẩn cấp và tiến hành ngăn chặn. Xét tới việc Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn sắp nhậm chức nhiệm kỳ hai, cùng với đó là việc sự ủng hộ đối với nguyên tắc “Một nước, hai chế độ” của Bắc Kinh đang suy giảm ở Đài Loan, những hành động này thậm chí có khả năng sẽ trở nên phổ biến và quyết liệt hơn.

Cuối tháng 3/2020, một tàu cá Trung Quốc đã va chạm với tàu khu trục của Nhật Bản ở biển Hoa Đông. Vụ va chạm đã khiến tàu khu trục bị thủng, nhưng tàu này đã có thể tự di chuyển và thủy thủ đoàn cũng không bị thương vong. Bắc Kinh tuyên bố rằng một ngư dân Trung Quốc đã bị thương và đổ lỗi cho tàu Nhật Bản trong sự cố này, kêu gọi Nhật Bản hợp tác ngăn chặn những sự cố trong tương lai. Không ai rõ liệu tàu Trung Quốc có thuộc lực lượng dân quân biển của nước này hay không. Đây là một lực lượng được Bộ Quốc phòng Mỹ mô tả là “lực lượng dự bị dân thường có vũ trang sẵn sàng được huy động” và “đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động ép buộc nhằm đạt được các mục tiêu chính trị của Trung Quốc mà không cần chiến đấu”.

Gần đây, tại Biển Đông cũng xảy ra một vài sự cố có liên quan tới các tàu Trung Quốc. Vào đầu tháng 3/2020, một tàu cá Việt Nam neo đậu gần một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa – vốn được cả Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền – đã bị một tàu Trung Quốc truy đuổi và phun vòi rồng, khiến tàu cá bị chìm do va phải đá. Thủy thủ đoàn đã được một tàu cá khác của Việt Nam cứu. Hà Nội tuyên bố rằng tàu cá Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc đâm phải. Đầu tháng 4, Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc đối với vụ việc và kêu gọi Trung Quốc “duy trì tập trung ủng hộ các nỗ lực quốc tế nhằm chiến đấu chống đại dịch toàn cầu và ngừng lợi dụng sự mất tập trung hoặc sự dễ tổn thương của các nước khác để mở rộng các tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp của mình ở Biển Đông”. Bộ Ngoại giao Mỹ cũng lưu ý rằng kể từ khi đại dịch bùng phát, “Bắc Kinh cũng đã công bố việc thành lập các ‘trạm nghiên cứu’ mới tại các căn cứ quân sự do Trung Quốc xây dựng trên đá Chữ Thập và đá Subi, và đã cho máy bay quân sự đặc biệt hạ cánh trên đá Chữ Thập”. Gần đây nhất, một tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) – một trong số những tàu đã quấy rối một tàu thương mại của Philippines vào tháng 9/2019 – được nhìn thấy đã tuần tra gần bãi cạn Scarborough, đại diện cho nhiều tàu khác của CCG đã và đang tuần tra ở hầu hết các khu vực bị tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông.

Những sự cố này phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Đó có phải là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đang bị phân tâm do COVID-19 và cuộc suy thoái kinh tế lịch sử phát sinh từ đó, và các chỉ huy hiếu chiến ở địa phương đang tự mình thách thức các giới hạn hay không? Hay đây chỉ là kết quả của việc Trung Quốc đưa vào sử dụng nhiều tàu và máy bay hơn, dẫn tới sự gia tăng có thể đoán trước về số lượng các sự cố và hoạt động? Mặc dù những lời giải thích này đều hợp lý, nhưng trên thực tế, yếu tố thúc đẩy các hành động của Trung Quốc nhiều khả năng là tính liên tục.

Những sự cố này không phải là chưa từng xảy ra, và khả năng là chúng không cho thấy một chiến lược mới của Trung Quốc sau đại dịch. Trái lại, những sự cố này nhất quán với cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các vấn đề đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Tổng bí thư Tập Cận Bình. Ngay từ trước khi dịch COVID-19 bùng phát, cách tiếp cận này đã thể hiện sự linh hoạt, tính quyết đoán và một mong muốn duy nhất là lợi dụng sự suy yếu và phân tâm của các nước bên ngoài để thúc đẩy các lợi ích của Trung Quốc.

Hơn một thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhìn nhận môi trường an ninh bên ngoài của họ nhìn chung là thuận lợi, mở ra “cơ hội chiến lược hiếm có” mà nhờ đó Trung Quốc có thể đạt được mục tiêu cốt yếu là phục hưng dân tộc thông qua sự phát triển kinh tế và xã hội, hiện đại hóa quân sự và mở rộng sức ảnh hưởng trong khu vực và trên toàn cầu. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, Bắc Kinh đã nhận thấy cơ hội mở rộng sức mạnh địa chính trị của mình so với Mỹ, tuy nhiên lại không tìm cách gây xung đột rõ ràng với Mỹ hay các đồng minh của nước này.

Kết quả là Bắc Kinh đã đẩy mạnh việc sử dụng các chiến thuật “vùng xám”, tìm cách từng bước thúc đẩy các lợi ích của Trung Quốc thông qua sự mơ hồ và các chiến thuật được thiết kế sao cho không kích động các biện pháp trả đũa quân sự. Những hoạt động này cũng là hành vi thăm dò, nhằm tìm hiểu xem Trung Quốc có thể đi bao xa mà không phải đối mặt với sự kháng cự quyết liệt. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã sử dụng cách tiếp cận này nhằm gia tăng sức ép đối với Nhật Bản ở biển Hoa Đông và thúc đẩy những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông, đối đầu với Philippines, Việt Nam, Malaysia và Indonesia.

Trong suốt thời gian này, cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với hoạt động địa chính trị khu vực đã thích ứng với các điều kiện cụ thể, linh hoạt trước các xu hướng chiến lược rộng lớn hơn và tận dụng cơ hội khi nhận thấy điểm yếu hay sự xao nhãng của các đối thủ. Những hành động của Trung Quốc không phải là canh bạc liều lĩnh như người ta tưởng ban đầu. Trái lại, đó là những sự thăm dò đã được dự tính trước nhằm tìm cách xác định điểm yếu và cơ hội. Trung Quốc điều chỉnh sức ép một cách thận trọng sao cho phù hợp với một tình huống nhất định nhưng không nhất thiết đi quá xa.

Cách tiếp cận này phản ánh một câu châm ngôn: “Hãy lấy lưỡi lê mà thăm dò: Nếu gặp thép, hãy dừng lại. Nếu gặp bùn nhão, hãy nhấn sâu hơn”. Trong nhiều trường hợp, Bắc Kinh đã tiếp tục nhấn sâu hơn khi nhận thấy rằng những hành động của họ không có khả năng gây ra phản ứng đáng kể. Tuy nhiên, khi sự quyết đoán của Trung Quốc gặp phải sự chống đối kiên quyết, Bắc Kinh lại không phản ứng bằng cách leo thang như người ta dự đoán.

Bắc Kinh đã thể hiện sự linh hoạt khi phải đối mặt với sự phản đối kiên quyết. Có thể kể đến những ví dụ như phản ứng của Nhật Bản trước việc Trung Quốc triển khai vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông vào năm 2013 và việc cựu Tổng thống Obama được cho là đã vạch ra “giới hạn đỏ” đối với Tập Cận Bình về bãi cạn Scarborough vào tháng 3/2016. Hơn nữa, phản ứng của Ấn Độ trước các hoạt động của Trung Quốc ở cao nguyên Doklam đã không dẫn tới chiến tranh.

Những hành động gần đây của Trung Quốc ở eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và Biển Đông cho thấy sự tiếp nối của cách tiếp cận linh hoạt và mang tính cơ hội này. Trong bối cảnh Mỹ do dự trong phản ứng trong nước và không thể dẫn dắt một phản ứng quốc tế thống nhất, còn Đông Nam Á đang khốn đốn vì dịch COVID-19, thì Bắc Kinh chắc chắn có không gian để thúc đẩy lợi thế và tìm kiếm cơ hội khẳng định các lợi ích của mình. Hơn nữa, những mối quan ngại ngày càng gia tăng rằng quân đội Mỹ có thể phải đối mặt với các vấn đề liên quan tới sự sẵn sàng của nhiều tài sản hải quân có khả năng sẽ khẳng định những nhận thức của Bắc Kinh rằng tình hình đang có lợi cho việc thúc đẩy chủ nghĩa cơ hội. Quả thật, phiên bản tiếng Anh của trang mạng chính thức của PLA đã cho đăng một bài bình luận tuyên bố rằng “sự bùng phát của COVID-19 đã làm suy giảm đáng kể năng lực triển khai tàu chiến của Hải quân Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Ngoài ra, một bài viết khác cũng tuyên bố rằng không có quân nhân Trung Quốc nào mắc COVID-19 và đại dịch đã “thay vào đó cải thiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Trung Quốc”.

Những hành động sau đại dịch của Trung Quốc cho thấy rõ Bắc Kinh đang tìm cách chứng tỏ với thế giới rằng PLA không hề bị COVID-19 tác động (mà trên thực tế rất có thể là không phải như vậy). Thông điệp đó là nhằm nhấn mạnh rằng đây không phải là lúc tìm cách lợi dụng sự tập trung của Trung Quốc vào việc ngăn chặn dịch bệnh, khôi phục nền kinh tế và duy trì sự ổn định chính trị trong nước. Đồng thời, Bắc Kinh có khả năng sẽ lợi dụng những sự cố này để thăm dò các đối thủ nhằm tìm ra dấu hiệu cho thấy sự yếu kém và mất tập trung, tìm kiếm cơ hội thay đổi nguyên trạng theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Mặc dù đại dịch có thể là nguyên nhân gây ra hành vi này, nhưng đó không phải là một chiến lược mới. Trái lại, đó là sự phản ánh chủ nghĩa cơ hội và sự quyết đoán, vốn là dấu hiệu đặc trưng cách tiếp cận của Trung Quốc trước đại dịch. Trong tương lai, Mỹ và các bên tham gia khác ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cần lường trước rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục những hành vi mang tính cơ hội của mình.

Các dấu hiệu leo thang cần lưu ý

Việc cho rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần là đang theo đuổi chiến lược cơ hội lâu dài ở các khu vực ngoại vi không có nghĩa là khó có khả năng leo thang. Tuỳ thuộc vào cách Bắc Kinh đánh giá mức độ yếu kém của các quốc gia trong khu vực và sự xao lãng của Washington, Trung Quốc có thể xác định rằng giờ chính là lúc phải thúc đẩy các tham vọng của họ trong khu vực tới giới hạn xa nhất có thể.

Các nhà phân tích và các nhà hoạch định chính sách nên tìm kiếm một loạt dấu hiệu đáng lưu ý để xác định liệu chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông, có bước sang một giai đoạn mới và leo thang hơn hay không.

Nỗ lực mang tính quyết định nhằm thay đổi nguyên trạng

Điều quan trọng nhất mà Trung Quốc có thể làm để lợi dụng tình hình hỗn loạn do dịch COVID-19 gây ra rõ ràng sẽ là thực hiện các hành động mang tính quyết định nhằm cố gắng đẩy các bên tuyên bố chủ quyền khác ra khỏi các cấu trúc địa hình trên biển mà nước này nắm quyền kiểm soát trên thực tế về mặt quân sự hoặc hành chính. Một hành động như vậy không nhất thiết phải là một nỗ lực mới của Trung Quốc, mà có thể chỉ là mở rộng nỗ lực hiện thời một cách hợp lý. Ví dụ, đảo Thị Tứ là một cấu trúc địa hình do Philippines kiểm soát nhưng lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đã không ngừng tuần tra quanh đảo này suốt 16 tháng qua. Đây là ví dụ điển hình cho một nỗ lực toàn diện của Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự di chuyển và hoạt động tiếp tế của Philippines tại đây, với mục tiêu khiến Philippines không thể bảo vệ được lập trường của mình đối với đảo này. Quả thực, lý do duy nhất khiến Bắc Kinh chưa thực hiện động thái như vậy là vì định hướng chiến lược của Philippines vốn đã ngả sang Trung Quốc được một thời gian, và Trung Quốc đơn giản là không muốn cản trở điều đó. Một động thái leo thang khác mà Trung Quốc có thể cân nhắc là mở rộng các đường biên giới trên biển bằng cách vạch ra các đường cơ sở liền mạch bao quanh quần đảo Trường Sa, từ đó khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển thậm chí còn rộng hơn nhiều trên Biển Đông. Một động thái như vậy sẽ đẩy mạnh cuộc chiến pháp lý của Bắc Kinh ở Biển Đông và làm gia tăng căng thẳng với các nước tuyên bố chủ quyền bị ảnh hưởng, có lẽ đáng chú ý nhất là Việt Nam.

Các hoạt động quân sự hóa mới

Kể từ khi Trung Quốc tiến hành nỗ lực xây dựng đảo trên quy mô lớn vào năm 2014, nước này đã liên tục bổ sung cơ sở hạ tầng và tài sản quân sự cho các cấu trúc địa hình mở rộng mà họ đã xây dựng ở Biển Đông, trong đó bao gồm các đường băng, nhà chứa máy bay và các cảng mới để phục vụ cho các loại máy bay chiến đấu, tên lửa đất đối không và tên lửa chống hạm tối tân, cùng các mạng lưới radar – dù Tập Cận Bình đã công khai cam kết không quân sự hóa Biển Đông. Mặc dù các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc đã được tiến hành, nhưng bất kỳ tài sản quân sự tấn công nào mới được bổ sung tại các cấu trúc địa hình do Trung Quốc kiểm soát trên Biển Đông cũng sẽ là một dấu hiệu leo thang khác đáng chú ý. Các khả năng này bao gồm việc giới thiệu các các năng lực tác chiến đổ bộ, các tàu hải quân hoặc tàu cảnh sát biển của Trung Quốc neo đậu tại các cấu trúc địa hình mới được quân sự hóa, và ra mắt các hệ thống chiến đấu siêu thanh hoặc chống ngầm mới, mà mỗi trường hợp trong số đó đều tăng cường khả năng triển khai quân sự của Trung Quốc và đưa nước này tiến gần hơn đến mục tiêu kiểm soát hiệu quả khu vực Biển Đông.

Tăng cường các biện pháp truyền thông

Một dấu hiệu khác cần lưu ý là đường lối công khai và quyết liệt hơn trong cả các tuyên bố chính thức lẫn từ các cơ quan truyền thông nhà nước về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với khu vực này, Biển Đông nói chung và các cấu trúc địa hình nói riêng. Hình thức tuyên truyền này là biện pháp hữu ích nhằm đánh lạc hướng sự chú ý ra khỏi tình trạng hỗn loạn đang diễn ra trong nước có liên quan đến dịch COVID-19, đồng thời làm suy yếu ý chí chính trị của các nước tuyên bố chủ quyền khác. Mặc dù không cần thiết, nhưng Trung Quốc đã thực hiện các động thái lớn ở Biển Đông một cách gần như hoàn toàn lặng lẽ, do đó việc thay đổi cách thức tuyên truyền chính thức, dù không nhất thiết phải có, sẽ là một dấu hiệu hàng đầu hữu ích cho thấy giai đoạn mới của chủ nghĩa cơ hội của nước này.

Chủ nghĩa cơ hội theo chiều ngang

Mặc dù các dấu hiệu cần chú ý nêu trên hầu như chỉ nhắc tới các hành động quyết liệt chống lại những nước phản đối các tuyên bố mở rộng của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhưng Trung Quốc cũng có thể lợi dụng thời cơ này để củng cố và mở rộng những lợi ích thu được từ các nước thân thiện trong khu vực. Ứng viên rõ ràng nhất ở đây là Campuchia, với mối quan hệ ngày càng sâu sắc và sự phụ thuộc ngày càng tăng vào Bắc Kinh. Dù Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã nhiều lần khẳng định rằng việc cho phép các lực lượng nước ngoài vào đất nước là vi phạm hiến pháp, nhưng ông có thể khôn khéo thay đổi cách diễn giải hiến pháp theo nhiều cách khác nhau. Bất chấp các quan ngại về bệnh dịch, Trung Quốc và Campuchia vừa hoàn thành cuộc tập trận chung kéo dài 2 tuần, và việc mở rộng các căn cứ tiền quân sự của Bắc Kinh tại Campuchia sẽ là cách thức thẳng thừng nhất để nâng cao vị thế sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Một động thái không bao hàm tuyên bố lãnh thổ của bất kỳ nước nào khác, sẽ là thách thức mà Mỹ và các nước khác khó đối phó, và sẽ có tác động chiến lược đáng kể đến Biển Đông theo một số cách khác nhau.

Sự có qua có lại liên quan đến Biển Đông

Có lẽ hành động nguy hiểm và dễ được thực hiện nhất của Trung Quốc sẽ là liên kết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với viện trợ y tế và kinh tế cho các nước đang phải đối phó với dịch COVID-19. Trung Quốc cho đến nay không hề ngần ngại liên kết các khoản viện trợ để đối phó với dịch bệnh và các dự án trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” của nước này, và sẽ không mất quá nhiều thời gian để các nước nâng những liên kết này lên cấp độ “cùng sản xuất” liên quan đến việc đặt cọc năng lượng hoặc nhượng bộ quyền tiếp cận một số cấu trúc địa hình ở Biển Đông cho Trung Quốc. Philippines một lần nữa sẽ là mục tiêu tiềm năng cho những nỗ lực như vậy, dù các lô thăm dò dầu khí hiện do Việt Nam và các nước khác sở hữu cũng sẽ là một trọng tâm tiềm năng. Theo thời gian, hình thức liên kết này chỉ ngày càng phát triển. Vì Mỹ và các nền kinh tế châu Âu đang bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế do dịch COVID-19 gây ra, Mỹ có thể dự đoán rằng Bắc Kinh sẽ nhận ra và tìm cách khai thác một cánh cửa cơ hội đang rộng mở.

Nói tóm lại, chiến lược đầy tính cơ hội của Trung Quốc có nhiều cách để triển khai trong bối cảnh cuộc khủng hoảng COVID-19, và việc cẩn thận lưu ý đến những dấu hiệu nêu trên có thể giúp dự đoán giai đoạn leo thang tiếp theo.

Cách thức đối phó với chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc

Sự quyết đoán của Trung Quốc sẽ không biến mất. Quả thực, xét tới những căng thẳng đang diễn ra ở eo biển Đài Loan và số tài sản ngày càng gia tăng của lực lượng quân đội, cảnh sát biển và dân quân biển Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông, sẽ càng có khả năng xảy ra các sự cố trong tương lai theo thời gian. Tuy nhiên, khi những thách thức này trở nên nghiêm trọng hơn, Mỹ sẽ càng cần phải thể hiện khả năng thiết lập một nghị trình quốc tế và dẫn dắt các nước còn lại trong khu vực phối hợp đối phó với sự quyết đoán và chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc. Nói cách khác, nếu Trung Quốc định tiến lên, thì Mỹ phải đảm bảo rằng họ sẽ đụng phải lá chắn thép.

Trước hết, Mỹ cần làm rõ ràng họ sẽ không tha thứ cho bất kỳ nước nào đang cố gắng lợi dụng đại dịch hiện nay để thay đổi nguyên trạng. Washington cần đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng thế giới cần phải ổn định nếu muốn giải quyết thành công cuộc khủng hoảng hiện nay, và các đồng minh và đối tác của Mỹ trên thế giới phải nhắc lại thông điệp này. Tuy vậy, ở châu Á, lời nói cần phải đi đôi với hành động. Bất kỳ thông điệp nào cũng cần phải được hậu thuẫn bằng những nỗ lực thể hiện ý chí và khả năng chống lại chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc thông qua việc tiếp tục nhịp độ hoạt động đều đặn trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đồng thời tiến hành các hoạt động đa phương phối hợp với các đồng minh và đối tác trong khu vực chẳng hạn như kết hợp các cuộc tuần tra trên biển và trên không, nhưng không được phép khiến binh lính gặp phải rủi ro.

Một câu hỏi then chốt là các nước láng giềng của Trung Quốc ở Biển Đông – đặc biệt là Philippines, Việt Nam, Malaysia và Indonesia – phản ứng ra sao trước chủ nghĩa cơ hội này. Đây có thể là một cơ hội để Mỹ tăng cường quan hệ với các nước này và giúp họ có đủ khả năng chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc. Điều này sẽ đòi hỏi Mỹ phải cung cấp cho các nước tuyên bố chủ quyền các năng lực, cơ sở hạ tầng và huấn luyện cần thiết để giám sát các vùng biển của họ, đồng thời cản trở nỗ lực của Bắc Kinh nhằm khẳng định các lợi ích của mình mà không gây nguy cơ leo thang. Về mặt ngoại giao, Washington có thể hỗ trợ các nước láng giềng của Trung Quốc trong việc cố gắng đàm phán một bộ quy tắc ứng xử mạnh mẽ và có hiệu lực pháp lý, dựa trên nền tảng là luật pháp và các chuẩn mực quốc tế vốn có sao cho phù hợp với phán quyết của Tòa trọng tài tại La Hay năm 2016 về Biển Đông.

Về mặt kinh tế, Mỹ có cơ hội giúp đỡ Đài Loan và các nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc trong việc giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc bằng cách theo đuổi các thoả thuận mở rộng thương mại, đầu tư song phương và đa phương. Một khía cạnh của chiến lược này có thể bao gồm việc mô phỏng một sáng kiến của Nhật Bản, nước mới đây đã tuyên bố kế hoạch phân bổ 2 tỷ USD nhằm khích lệ các công ty chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Xét tới xu hướng dịch chuyển dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Đài Loan và Đông Nam Á vốn đã bắt đầu từ trước khi dịch COVID-19 bùng phát, nỗ lực này có thể hỗ trợ các lực lượng thị trường cố hữu.

Cuối cùng, điều quan trọng là Mỹ cùng các đồng minh và đối tác của nước này phải hiểu rằng Trung Quốc không hề thay đổi cách tiếp cận của mình. Chủ nghĩa cơ hội và sự quyết đoán được thể hiện trong nhiều tháng qua trên thực tế đã tồn tại trong nhiều năm. Tuy vậy, Washington sẽ tự lừa dối chính mình nếu tin rằng Trung Quốc sẽ không lợi dụng tình hình hiện tại. Ngay cả khi phải đối mặt với những tổn thất to lớn do dịch bệnh mới, Mỹ cũng không thể hành động như thể địa chính trị và sự cạnh tranh đã tạm dừng. Có chăng, sự cạnh tranh trong tương lai ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã trở nên mạnh mẽ hơn, và Mỹ cần đi đầu trong việc đối phó với xu hướng này.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Toan tính sai lầm của Trung Quốc ở Biển Đông thời COVID-19

Đại dịch COVID-19 là cơ hội cho nỗ lực của Trung Quốc nhằm kéo các nước Đông Nam Á lại gần hơn về phía mình. Vì vậy, trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn.


Đối với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang phải vật lộn với dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (COVID-19), việc Trung Quốc hứa hẹn cung cấp 100 triệu khẩu trang và 10 triệu bộ quần áo bảo hộ, cùng với các trang thiết bị y tế hết sức cần thiết khác, là một điều may mắn bất ngờ. Việc cung cấp những trang thiết bị này, qua kênh viện trợ và kênh thương mại, đã được Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cam kết tại Hội nghị trực tuyến đặc biệt mới đây giữa ASEAN và 3 đối tác khu vực – Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một động thái khác đáng hoan nghênh là việc Trung Quốc cam kết xây dựng cơ sở phục hồi sau COVID-19 với số vốn ban đầu trị giá 5 tỷ USD theo đề xuất của Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do nước này dẫn dắt.

Tuy nhiên, cũng có những động thái không được hoan nghênh như việc các tàu cá Trung Quốc, được các tàu của lực lượng Cảnh sát biển nước này hộ tống, đã đi vào vùng biển xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia hồi tháng 2 vừa qua, và việc một tàu khảo sát của Trung Quốc, được nhiều tàu khác hộ tống, mới đây đã đi vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, gần Việt Nam, Brunei và Malaysia. Ngoài ra, đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp sau khi va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc, với việc hai bên cùng cáo buộc đối phương đâm vào tàu của mình.

Việt Nam, Brunei và Malaysia cùng với nước thân hữu trong khối ASEAN là Philippines đã có những tuyên bố chủ quyền cạnh tranh với Trung Quốc đối với các cấu trúc địa hình khác nhau ở vùng biển đông đúc và giàu tài nguyên này. Trung Quốc và Indonesia không có các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn, nhưng Bắc Kinh khẳng định vùng biển xung quanh quần đảo Natuna là khu vực đánh cá truyền thống của Trung Quốc và ngư dân của họ có quyền đánh cá ở đó, cho dù khu vực này nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia.

Việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông vào thời điểm các nước trong khu vực đang phải vật lộn với đại dịch và dễ bị tổn thương chắc chắn sẽ khiến ASEAN lo ngại, cho dù họ đang hào hứng tiếp nhận sự giúp đỡ y tế từ người láng giềng khổng lồ này.

Trong khi các nước khác vẫn đang trong vòng vây đại dịch, tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã thuyên giảm và nền kinh tế nước này đã bắt đầu bước vào tiến trình tái khởi động. Đây là thời điểm thuận lợi để Trung Quốc nắm lấy cơ hội mà đại dịch mang lại nhằm cải thiện quan hệ với khu vực Đông Nam Á vốn đang trong trạng thái căng thẳng do những tranh chấp lãnh thổ những năm gần đây, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Tuy nhiên, những hành động gây sức ép cùng những tuyên bố chủ quyền trên biển vào thời điểm này đã làm cho những nỗ lực của Bắc Kinh trở nên vô ích.

Giành được thiện cảm trong khủng hoảng

Trong những năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đã bị hủy hoại bởi những tranh chấp lãnh thổ giữa họ ở Biển Đông. Điều này bắt đầu vào năm 1995, khi Philippines phát hiện ra rằng Hải quân Trung Quốc đã và đang xây dựng các cấu trúc cố định trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef), một đảo san hô vòng cách hòn đảo Palawan của Philippines 217 km. Đảo san hô này đều được Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.

Trung Quốc nói rằng họ xây dựng các cấu trúc này làm nơi cư trú cho các ngư dân, nhưng trên thực tế đó là hành động chiếm đóng đảo san hô này. ASEAN nhận được nhiều lời cảnh báo tới mức các ngoại trưởng trong khối đã phải họp tại Singapore để đưa ra tuyên bố chung bày tỏ lo ngại sâu sắc trước diễn biến tình hình và kêu gọi sớm đưa ra giải pháp.

Tuy nhiên, đến cuối những năm 1990, mọi việc giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ASEAN đã thay đổi. Yếu tố làm thay đổi cuộc chơi là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Việc đồng tiền các nước trong khu vực, trong đó có Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore, thay nhau mất giá đã dẫn đến suy thoái kinh tế trên toàn khu vực.

Trong lúc các cường quốc phương Tây như Mỹ còn chậm chạp trong việc dang tay giúp đỡ, Bắc Kinh đã làm được một số việc và giành được thiện cảm của các quốc gia chịu tác động của khủng hoảng. Thứ nhất, Bắc Kinh đã không phá giá đồng nhân dân tệ cho dù điều này có thể giúp bảo vệ tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc so với hàng xuất khẩu từ các nước chịu tác động của khủng hoảng, bởi vậy tránh gây thêm sức ép cho những nền kinh tế này. Thứ hai, Trung Quốc đã viện trợ 4 tỷ USD cho các nước trong khu vực thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) – tổ chức này đã cung cấp các khoản vay để ổn định các nền kinh tế gặp khó khăn – và thông qua các kênh song phương.

Đồng thời, theo các nhà phân tích, trong cuộc khủng hoảng tài chính này, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận linh hoạt, bớt hung hăng đối với những tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi trước đó Bắc Kinh từ chối tiến hành các cuộc đàm phán bất chấp lời kêu gọi từ các nước ASEAN, thì vào năm 1999 Trung Quốc đã bắt đầu đối thoại với ASEAN về vấn đề Biển Đông. Kết quả của những cuộc đàm phán này là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 không mang tính ràng buộc. Tuyên bố này đặt ra các tiêu chuẩn về hành vi ứng xử để duy trì hòa bình ở những vùng biển tranh chấp. Đây cũng là khúc dạo đầu cho Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý để giải quyết các tranh chấp.

Trong bầu không khí nồng ấm hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và ASEAN cũng đã bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán vào năm 2000 về một thỏa thuận thương mại tự do, nhất trí về thỏa thuận khung vào năm 2002. Năm 2003, hai bên cũng đã bước vào mối quan hệ đối tác chiến lược. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một thập kỷ quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN trở nên gần gũi hơn bao giờ hết trong khi những tranh chấp lãnh thổ được xếp lại và hai bên thăm dò khả năng cùng phát triển các khu vực tranh chấp. Điều này diễn ra vào thời điểm Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq, Afghanistan và ít can dự hơn vào khu vực Đông Nam Á.

Những tranh chấp quay trở lại

Tuy nhiên, những tranh chấp ở Biển Đông đã quay trở lại. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình lên Liên hợp quốc kiến nghị về việc mở rộng thềm lục địa của họ theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trung Quốc đã bác bỏ kiến nghị này với lập luận rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo Biển Đông và các vùng biển gần kề khi đưa ra tấm bản đồ “đường 9 đoạn” đáng hổ thẹn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông.

Căng thẳng gia tăng đã dẫn tới những xung đột như cuộc đối đầu năm 2012 giữa tàu giám sát của Trung Quốc và Hải quân Philippines ở bãi cạn Scarborough và cuộc đối đầu năm 2014 giữa các tàu của Việt Nam và Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam sau khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu ở khu vực này.

Về kinh tế, Trung Quốc đã cạnh tranh với một số nước thành viên ASEAN về đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Thỏa thuận thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc dường như đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích hơn so với một số nước thành viên ASEAN, khiến những nước này không hài lòng.

Việc Trung Quốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo trên các bãi đá và đảo san hô cũng như đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo này đã làm gia tăng căng thẳng. Mặc dù các bên tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philippines cũng tiến hành cải tạo và quân sự hóa các đảo mà họ chiếm giữ, nhưng quy mô và mức độ cải tạo và quân sự hóa của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều, gây lo ngại không chỉ cho các nước thành viên ASEAN mà còn cho các cường quốc khác như Mỹ và Nhật Bản.

Tuy nhiên, sau khi Tòa Trọng tài đưa ra phán quyết năm 2016 bác bỏ những tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông, và khi tình trạng đối địch giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng dưới thời Tổng thống Donald Trump, Bắc Kinh đã tìm cách đàm phán về COC với ASEAN, điều mà họ đã trì hoãn trong nhiều năm. Hai bên đã đạt được một số tiến bộ với việc nhất trí về bản dự thảo vào năm 2019.

Việc Trung Quốc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong khu vực những năm gần đây thông qua sáng kiến “Vành đai và Con đường” cũng đã góp phần cải thiện quan hệ kinh tế giữa hai bên. Giờ đây, với sự bùng phát của dịch COVID-19, Trung Quốc một lần nữa có cơ hội để cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với khu vực Đông Nam Á, như họ đã làm trong năm 1997.

Trung Quốc đã cam kết cung cấp trang thiết bị y tế và cử các chuyên gia y tế đến một số nước ASEAN. Tuy nhiên, Bắc Kinh có thể làm nhiều hơn thế. Mặc dù cũng phải vật lộn với dịch bệnh trong nước vẫn chưa đạt đỉnh nhưng Mỹ, đối thủ của Trung Quốc trong khu vực, vẫn đang trợ giúp cho khu vực Đông Nam Á cả về chuyên gia lẫn tài chính. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ, có văn phòng ở 6/10 nước ASEAN, đang hỗ trợ và tư vấn các nước về cách thức đối phó với đại dịch.

Mỹ cũng đã cam kết viện trợ 18,3 triệu USD cho các nước ASEAN để giúp các nước này chuẩn bị các phòng thí nghiệm có thể tiến hành xét nghiệm trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin về nguy cơ dịch bệnh, thực hiện các kế hoạch đối phó với tình huống khẩn cấp liên quan đến sức khỏe cộng đồng tại các điểm kiểm soát biên giới, đào tạo và trang bị lực lượng phản ứng nhanh trong điều tra và truy vết tiếp xúc, cùng nhiều hoạt động khác.

Phó giáo sư Lý Minh Giang thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Đại học công nghệ Nanyang, Singapore cho rằng Trung Quốc có thể trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ cũng như tài chính. Nước này cũng có thể giúp xây dựng các cơ sở y tế như các bệnh viện dã chiến đã được triển khai nhanh chóng ở thành phố Vũ Hán, tâm dịch của Trung Quốc trong thời gian vừa qua.

Mặc dù đại dịch cũng đem lại cơ hội để Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình, nhưng hành động này sẽ là phản tác dụng sau những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kéo khu vực này đến gần quỹ đạo của mình hơn. Ngày càng có nhiều người ở châu Á lo ngại việc Trung Quốc có thể tận dụng thời điểm dịch bệnh đang tác động đến các lực lượng tiền tuyến của Mỹ trong khu vực để đẩy nhanh những tham vọng của mình ở Đông Nam Á. Tàu sân bay Theodore Roosevelt của Mỹ, được triển khai ở Thái Bình Dương, đã bị dịch bệnh tấn công, với hàng trăm ca nhiễm trong đoàn thủy thủ 5.000 người.

Ông Lye Liang Fook, chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore cho rằng nếu Trung Quốc muốn gây ảnh hưởng đối với Đông Nam Á thay vì chỉ chi phối khu vực này thông qua sức mạnh tuyệt đối của mình, thì họ cần phải nhạy cảm hơn với những lo ngại và lợi ích của các nước trong khu vực.

Trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn. Do đó, thay vì tranh giành với ngư dân của khu vực trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, hay đuổi các ngư dân nước ngoài ở các vùng biển tranh chấp và thanh minh cho những hành động như vậy bằng lập luận rằng đây là những vùng biển đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc (chúng cũng là những vùng đánh cá truyền thống của các ngư dân ở các nước xung quanh những vùng biển này), Bắc Kinh có thể bắt đầu bằng việc thăm dò khả năng ký kết các thỏa thuận đánh cá với các nước ASEAN.

Kể từ thời điểm có được một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc – chứ không phải một bộ quy tắc ứng xử không mang tính ràng buộc được Bắc Kinh ủng hộ – có tính bao trùm nhằm duy trì các vùng biển mở đến khi đạt được mục tiêu duy trì ổn định và hòa bình ở Biển Đông sẽ là một chặng đường dài.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Trung Quốc gia tăng hành vi sai trái “chưa từng có” ở Biển Đông

Trung Quốc đang lợi dụng dịch bệnh Covid-19 để đẩy mạnh một loạt các hành vi sai trái ở mức độ “chưa từng có tiền lệ” trên Biển Đông.

Đây là nhận định được bà Sumathy Permal, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hàng hải eo biển Malacca, Malaysia đưa ra tại Hội thảo trực tuyến về vấn đề Biển Đông có chủ đề “Đi qua những vùng biển tranh chấp” diễn ra ngày 15/5 vừa qua.


Bà Sumathy Permal, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hàng hải eo biển Malacca, Malaysia tại Hội thảo.

Những hành vi gây hấn nguy hiểm

Theo nữ chuyên gia người Malaysia, từ đầu năm 2020, Biển Đông đã trở thành “điểm nóng” chứng kiến những hành vi khiêu khích và gây hấn của Trung Quốc nhằm vào các quốc gia trong khu vực. Trung Quốc đã triển khai số lượng lớn tàu tới các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước và có những hành vi khiêu khích và quấy rối nguy hiểm.

Bà Sumathy Permal cũng cho biết, Trung Quốc cũng đã lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp tại các nước trong khu vực để tiếp tục có những hành động leo thang căng thẳng khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại mà điển hình là vụ tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá QNg 90617 TS của Việt Nam với 8 ngư dân trên tàu ngày 2/4.

Đáng chú ý, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc có hành vi hết sức nguy hiểm và đáng lên án như trên. Gần một năm trước đó, hồi tháng 6/2019, tàu cá mang số hiệu F/B GIMVER1 của Philippines với 22 ngư dân trên tàu cũng đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm ở gần bãi Cỏ Rong trên Biển Đông.


Trung Quốc liên tục triển khai tàu thực hiện hành vi khiêu khích nguy hiểm trên Biển Đông. Ảnh: AP

“Những hành vi gây hấn nói trên cùng với việc Trung Quốc từ nhiều năm qua liên tục cải tạo phi pháp các bãi đá ở Biển Đông và xây dựng các công trình trái phép trên đó, đồng thời ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là "khu Nam Sa” và "khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được cho là những bước đi đầy toan tính của Trung Quốc nhằm hiện thực hoá tham vọng độc chiếm Biển Đông của nước này thông qua chiến lược Biển xanh 2020, bà Sumathy Permal nhấn mạnh.

Vị nữ chuyên gia này nêu rõ, một trong những chiến thuật chính mà Trung Quốc thường xuyên sử dụng trong suốt hơn 10 năm qua là triển khai các nhóm tàu hỗn hợp gồm các tàu cá, tàu hải cảnh và hải giám tới vùng biển của các quốc gia trong khu vực nhằm thực hiện hành vi khai thác trái phép, quấy rối thậm chí gây hấn và tấn công tàu các nước khác.

Đáng lo ngại hơn, hành vi này của Trung Quốc không những duy trì liên tục trong suốt nhiều năm qua mà còn tăng cường cả về tần suất, mức độ và số lượng tàu tham gia và đã đạt ngưỡng “chưa từng có tiền lệ” trong khoảng đầu năm 2020 và dự kiến sẽ tăng mạnh trong thời gian tới khi Trung Quốc đã “rảnh tay” hơn trong việc đối phó với Covid-19.


Cùng với việc ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là "khu Nam Sa” và "khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc cũng đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể mới ở Biển Đông. Ảnh:
AFP

Duy trì biện pháp pháp lý và ngoại giao

Trước những diễn biến phức tạp và khó lường trên Biển Đông trong thời gian qua, bà Sumathy Permal cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay là các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Philippines và Malaysia – vốn chịu nhiều tác động nhất từ các hành vi sai trái của Trung Quốc – cần tiếp tục duy trì các biện pháp pháp lý và ngoại giao cứng rắn hơn nữa nhằm đối phó với Trung Quốc.

Cụ thể, các nước trong khu vực đã nhất trí về một khuôn khổ pháp lý trong việc bảo vệ các tài nguyên, khoáng sản ở Biển Đông nhằm ngăn chặn những hành vi khai thác trái phép của Trung Quốc cũng như không để Trung Quốc tiếp tục có những động thái gây rối, cản trở hoạt động khai thái, đánh bắt cá và thăm dò dầu khí hợp pháp của các nước trong khu vực cùng các đối tác khác. Ngoài ra, một số quốc gia trong khu vực, dù không có tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông như Indonesia cũng tham gia đề xuất các giải pháp và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao để giải quyết căng thẳng ở Biển Đông.

Hiện đã có ít nhất 3 cơ chế và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao khác nhau có sự tham gia của cả các nước có tranh chấp như Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam và các nước không có tranh chấp ở Biển Đông như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay.

Tuy nhiên, bà Sumathy Permal cho rằng, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao nói trên dù khá đầy đủ và đồng bộ nhưng vẫn chưa đủ sức buộc Trung Quốc từ bỏ tham vọng sai trái của mình. Trên thực tế, dù nhiều lần tuyên bố tôn trọng các thoả thuận hợp tác, đối thoại và tránh có các hoạt động làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông, Trung Quốc vẫn liên tục khiến các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại về những hành vi gây hấn khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

Điều này cho thấy, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao này vẫn chưa đủ tính ràng buộc pháp lý cần thiết để buộc Trung Quốc chấm dứt những hành động sai trái của mình. Tương tự như vậy, Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) dù đã được Trung Quốc và ASEAN thông qua năm 2012 và được coi là một văn kiện quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông vẫn chưa thể phát huy hết tác dụng bởi cũng không mang tính ràng buộc.

Trong khi đó, việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (COC) – với tính ràng buộc pháp lý cao – được kỳ vọng sẽ ngăn ngừa căng thẳng tại những khu vực tranh chấp ở Biển Đông lại đang gặp rào cản lớn cũng do đại dịch Covid-19 khiến các cuộc đàm phán về COC không thể diễn ra trực tiếp theo lộ trình đã được các bên nhất trí thông qua.

“Tôi vẫn cho rằng, việc tiếp tục thúc đẩy tiến trình đàm phán COC trong thời gian tới [khi dịch Covid-19 qua đi-PV] là rất quan trọng. Tuy nhiên, kết quả đàm phán có thể sẽ rất khác biệt so với trước đây nếu xét đến những gì đang diễn ra trên thực địa để đảm bảo rằng sự thành công trong việc thông qua COC là một kết quả xứng đáng với những nỗ lực và quyết tâm chính trị của các nước tham gia đàm phán”, bà Sumathy Permal nêu rõ./.

Nguồn: https://vov.vn/chinh-tri/trung-quoc-gia-tang-hanh-vi-sai-trai-chua-tung-co-o-bien-dong-1050966.vov
0

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Âm mưu dùng 'Tứ Sa' để thay thế đường lưỡi bò của Trung Quốc

Với chiến lược "Tứ Sa", Trung Quốc âm mưu yêu sách vùng biển còn lớn hơn cả khu vực giới hạn trong "đường lưỡi bò", nhưng cả hai đều không có cơ sở pháp lý và cố ý nhập nhằng.

Trung Quốc đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể mới ở Biển Đông. Ảnh: AFP.


Trong bài viết được đăng trên chuyên trang Maritime Issues hồi cuối tháng 4, phó giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh đưa ra lời cảnh báo nghiêm khắc.

"Trong khi cộng đồng quốc tế có thể chọn cách cười nhạo những yêu sách vô căn cứ của Trung Quốc hoặc theo dõi và lên tiếng chống lại những nỗ lực của họ nhằm viết lại luật quốc tế, thì những nước im lặng sẽ phải đối mặt với hậu quả hiển nhiên là một trật tự thế giới mới chỉ có lợi cho một nước và gây bất lợi cho tất cả".

"Yêu sách vô căn cứ" mà vị chuyên gia hàng đầu Việt Nam về luật biển, nguyên phó viện trưởng Viện Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao, nhắc đến là cái mà Trung Quốc gọi là "Nam Hải chư đảo", hay "Tứ Sa", đề cập đến các đảo, đá và thực thể khác ở Biển Đông.

Trong động thái mà bà Lan Anh cho là có liên quan đến yêu sách này, Trung Quốc hôm 19/4 đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông.

Vị chuyên gia cho rằng dù chưa rõ Trung Quốc sẽ gộp 80 thực thể mà họ nói là mới phát hiện này vào Hoàng Sa hay Trường Sa, điều "tương đối chắc chắn" là Trung Quốc xem chúng thuộc "Nam Hải chư đảo" và vì vậy có thể tạo ra quyền và lợi ích trên biển.

Chiêu sách mới "Tứ Sa"


Lập luận "Tứ Sa" được đề cập một cách không chính thức vào tháng 8/2017 bởi Mã Tân Dân, người khi đó là vụ phó Vụ Điều ước và Luật pháp thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong một cuộc họp kín với các quan chức Mỹ ở Boston, để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông.

"Tứ Sa" bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (Bắc Kinh gọi tương ứng là Tây Sa và Nam Sa), bãi ngầm Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Bắc Kinh gộp chung gọi là "quần đảo Trung Sa", cùng nhóm đảo Pratas mà Bắc Kinh gọi là "quần đảo Đông Sa".

Trước đó, Trung Quốc đưa ra yêu sách "đường chín đoạn" hay "đường lưỡi bò" để tuyên bố chủ quyền đối với khoảng 80% diện tích Biển Đông, bao gồm các nhóm thực thể nói trên và vùng biển lân cận.


Trung Quốc âm mưu dùng "Tứ Sa" để tạo lớp vỏ mới cho "đường lưỡi bò". Đồ họa: Washington Beacon.

Tuy nhiên, cái gọi là "đường lưỡi bò" đã bị tòa trọng tài quốc tế bác bỏ vào năm 2016, khiến Trung Quốc, dù tuyên bố không thừa nhận phán quyết, vẫn cần phải xây dựng yêu sách và lập luận mới.

"Ngay cả các luật sư quốc tế Trung Quốc cũng biết rằng đường lưỡi bò không có cơ sở trong luật quốc tế", tiến sĩ Zachary Abuza, nhà nghiên cứu về chính trị và an ninh Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington D.C., nói với Zing.

"Vì vậy, nếu họ là luật sư thông minh, họ sẽ cố thuyết phục thân chủ của mình áp dụng chiến lược có căn cứ pháp luật hơn một chút".

Chiến lược đó chính là "Tứ Sa", dù nguồn gốc của cách tiếp cận này không phải mới.

Trên thực tế, "Tứ Sa" là cách diễn đạt nôm na cho cái mà Trung Quốc từ lâu đã gọi là "Nam Hải chư đảo", tức "các đảo ở Nam Hải", theo cách nước này gọi Biển Đông.

Trong công hàm gửi Tổng thư ký LHQ hôm 17/4, Trung Quốc lấy lý lẽ "dựa trên UNCLOS" để đòi các quyền và lợi ích với "Nam Hải chư đảo", cũng như các quyền và lợi ích ở Biển Đông dựa trên các tập quán lịch sử và luật pháp quốc tế, theo bà Lan Anh.

Dùng "Tứ Sa" để có vẻ phù hợp với UNCLOS


Vị chuyên gia luật biển cho rằng Trung Quốc đưa ra "Tứ Sa" để những yêu sách của họ về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đối với "Nam Hải chư đảo" có vẻ "phù hợp hơn" với ngôn ngữ của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982, tránh sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế.

Thay vì tuyên bố "chủ quyền lịch sử" đối với vùng biển nằm trong "đường lưỡi bò", Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc mà họ xem là đảo.

"Trung Quốc đang cố giảm bớt vai trò của 'đường lưỡi bò' vì đó là sự xấu hổ và không nước nào chấp nhận yêu sách đó", James Kraska, giáo sư về luật biển quốc tế tại Đại học Hải chiến Mỹ, trả lời Zing.

"Họ chuyển hướng sang 'Tứ Sa' vì nó có thể giúp họ yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý xung quanh các nhóm đảo này".

Về bản chất, hai yêu sách này chỉ là "bình mới rượu cũ". Thông qua việc kết luận rằng các nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán rộng đến 200 hải lý, Trung Quốc vẫn đang yêu sách các vùng biển mà ghép lại sẽ có phạm vi gần như không khác biệt, thậm chí còn rộng hơn, so với vùng biển bên trong "đường lưỡi bò", theo các chuyên gia.

"Tôi nghĩ việc Trung Quốc đề cập đến 'Tứ Sa' chỉ là cách để chuyển hướng chú ý vốn tập trung vào 'đường lưỡi bò' mà thôi. 'Đường lưỡi bò' vẫn nằm đó", Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại RAND Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách có trụ sở tại California, nói với Zing.

"Đó là cách để Trung Quốc nói họ có chủ quyền với 90% diện tích Biển Đông, bao gồm các cấu trúc và vùng biển trong giới hạn họ tự đặt ra".

Xét trên góc độ luật pháp quốc tế, yêu sách "Tứ Sa" cũng là một phiên bản mơ hồ, không có cơ sở pháp lý, giống như yêu sách "đường lưỡi bò". Hay nói cách khác, Trung Quốc vẫn dựa trên việc diễn giải tùy tiện luật pháp quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát toàn bộ các cấu trúc và vùng biển ở Biển Đông.

Xét trên góc độ luật pháp quốc tế, yêu sách "Tứ Sa" cũng là một phiên bản mơ hồ, không có cơ sở pháp lý, giống như yêu sách "đường lưỡi bò".


Đá Chữ Thập, một thực thể thuộc quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp. Ảnh: AP.

Không có đường cơ sở với các điểm và cấu trúc của "Tứ Sa"


Nội hàm của Tứ Sa bao gồm yêu sách về chủ quyền với các nhóm đảo và yêu sách về các vùng biển.

Đối với yêu sách vùng biển, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục thiết lập đường cơ sở bao quanh các cấu trúc thuộc các nhóm đảo, như đã làm với Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng). Từ đường cơ sở đó, Trung Quốc sẽ yêu sách vùng lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, cũng như không loại trừ yêu sách thềm lục địa, cho cả 4 nhóm đảo.

Theo các chuyên gia, các quy định trong UNCLOS mà Trung Quốc là thành viên không cho phép Trung Quốc thiết lập đường cơ sở đối với bất cứ nhóm đảo nào thuộc "Tứ Sa", dù là đường cơ sở quần đảo hay đường cơ sở thẳng.

Việc không nêu rõ phạm vi từng nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" được cho là để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào các nhóm đảo này.

Ngoài ra, phán quyết của tòa quốc tế năm 2016 cũng bác bỏ khả năng vẽ đường cơ sở thẳng đối với Trường Sa, cũng như khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của các cấu trúc thuộc Trường Sa và Scarborough.

Những kết luận này cũng sẽ áp dụng với các nhóm đảo còn lại trong "Tứ Sa".

Đối với yêu sách về chủ quyền các nhóm đảo, việc không nêu rõ phạm vi từng nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" được cho là để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào các nhóm đảo này, cho dù đó là cấu trúc chìm hay nửa nổi nửa chìm.

Với nhận định đó, việc Trung Quốc công bố "danh xưng tiêu chuẩn, như một cách khẳng định chủ quyền, đối với 80 cấu trúc "mới phát hiện" ở Biển Đông, bao gồm 55 thực thể địa lý dưới đáy biển, gây ra những quan ngại về dã tâm của Bắc Kinh.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, đã xác định vị trí các cấu trúc với tọa độ được Trung Quốc công bố.

Đáng chú ý là 55 thực thể địa lý dưới đáy biển đều nằm trong vùng 200 hải lý của Việt Nam và nằm ngoài khá xa vùng 12 hải lý của bất cứ cấu trúc nổi nào mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, theo bà Lan Anh.

Vị trí 80 cấu trúc ở Biển Đông mà Trung Quốc mới công bố tên gọi: màu đỏ là các cấu trúc mà Trung Quốc gọi là đảo, còn màu xanh là các cấu trúc chìm dưới mực nước biển. Đồ họa: Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao/từ Maritime Issues.


"Quỹ đạo mới nhất của các yêu sách, trong đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc chìm dưới nước và các quyền lợi trên biển từ 4 nhóm đảo xa xôi ở Biển Đông, thách thức các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế", chuyên gia luật biển viết trên Maritime Issues.

Đặt trong bối cảnh diễn dịch yêu sách "Tứ Sa", bà Lan Anh cho rằng việc tuyên bố chủ quyền đối với 55 thực thể này "có thể báo hiệu rằng Trung Quốc đã tích lũy đủ sức mạnh và sự tự tin để chống lại luật pháp quốc tế, đồng thời tự đặt ra luật của riêng họ".

"'Tứ Sa' là một lăng kính mà qua đó các yêu sách dài hạn đầy tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông được phơi bày hoàn toàn", bà viết.

"Bất kể bao nhiêu 'Sa', có thể là 2 'Sa' phổ biến như Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc 3 như tên của thành phố 'Tam Sa' chỉ ra, hoặc 4 bao gồm cả Pratas và Macclesfield, tham vọng lâu dài của Trung Quốc là tối đa hóa các yêu sách chủ quyền trên biển".

Bộ Ngoại giao phản đối Trung Quốc ngang nhiên đặt “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể ở Biển Đông


"Việt Nam nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật phát quốc tế, đồng thời có quyền chủ quyền, quyền tài phán ở vùng biển như xác lập ở Công ước Luật biển UNCLOS năm 1982", Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng trả lời câu hỏi của Zing về vấn đề này tại họp báo thường kỳ chiều 23/4.


"Mọi hành vi xâm hại chủ quyền Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam với vùng biển của mình đều không có giá trị, không được công nhận và Việt Nam kiên quyết phản đối", ông Thắng nói thêm.


Nguồn: https://zingnews.vn/am-muu-dung-tu-sa-de-thay-the-duong-luoi-bo-cua-trung-quoc-post1080452.html
0