Vibay

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Vì sao châu Á ‘vung tiền’ mua vũ khí ?

Trong bối cảnh cả thế giới vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế, việc chi tiêu quốc phòng châu Á sẽ vượt qua châu Âu lần đầu tiên ngay trong năm nay đã khiến thế giới không khỏi chú ý. Giới chuyên gia đã đưa ra nhiều lý do khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở một kết luận: Quá trình hiện đại hóa quân sự của châu Á sẽ còn kéo dài.


Theo phân tích của chuyên gia cấp cao Felix K. Chang (Viện Nghiên cứu Chính sách đối ngoại), một phần lớn sự gia tăng chi tiêu quốc phòng của cả châu Á xuất phát từ Trung Quốc đi cùng với những tham vọng ngày càng lớn của nước này. Việc Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hóa quân sự và tuôn ra những tuyên bố cứng rắn đã thúc đẩy các nước châu Á khác lao vào cuộc đua.

Sự tiến bộ của Trung Quốc
Vào đầu thập niên này, phần lớn ngân sách quân sự của Trung Quốc đã được dành để chuẩn bị cho việc huy động quốc gia và duy trì lực lượng thông thường với số lượng lớn. Trong một vài năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu tái phân bổ ngân sách, chuyển các nguồn lực từ các lực lượng bộ binh sang lực lượng hải quân và không quân. Cụ thể, nước này đã giảm mạnh lực lượng bộ binh với việc cho xuất ngũ hơn 1 triệu quân; kế hoạch là giảm từ hơn 120 sư đoàn xuống còn chưa tới 60 sư đoàn được trang bị đầy đủ vào cuối thập niên này. Điểm đáng chú ý, quá trình này đi kèm với việc thúc đẩy các nguồn lực giành cho nghiên cứu, phát triển và mua lại của các hệ thống vũ khí mới.

Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc


Về hải quân, các nhà máy đóng tàu của Trung Quốc đã tiến nhanh hơn trong vòng một thập niên qua mặc dù Trung Quốc vẫn phải mua một số lượng tàu khu trục và tàu ngầm từ Nga, nhưng sau đó họ đã bắt đầu sản xuất hàng loạt sản phẩm riêng và cuối cùng đã tân trang lại một tàu sân bay cũ của Liên Xô gọi là tàu Liaoning (Liêu Ninh) vào năm 2012. Trung Quốc có thể xây dựng thêm hai tàu riêng của mình trong những năm tới.

Hải quân Trung Quốc thậm chí còn xây dựng một căn cứ hải quân mới, rất lớn ở mũi phía nam của đảo Hải Nam bao gồm một đường hầm dưới lòng đất để tấn công hạt nhân và tàu ngầm tên lửa đạn đạo.

So với cùng kỳ trước đó, lực lượng không quân của Trung Quốc bắt đầu chuyển mình, từng bước thay thế các máy bay chiến đấu cũ bằng các loại máy bay chiến đấu Su-30MKK và Su-27SK hiện đại hơn của Nga và những loại máy bay chiến đấu bản xứ J-10 và J-11.

Để tạo ra hạm đội mới của mình, Trung Quốc đã đầu tư mạnh không chỉ vào những mẫu thiết kế kỹ thuật đổi chiều với Nga, mà còn đặt nền móng cho một ngành công nghiệp hàng không vũ trụ trong nước có thể phát triển máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo của mình. Trong khi đó, lực lượng không quân cũng đã mua các loại máy bay đòi hỏi sẽ phải có một chiến trường "thông tin hóa" kèm theo, chẳng hạn như máy bay A-50 và Y-8W để cảnh báo sớm và trinh thám (AEW & C) và máy bay H-6U để tiếp dầu trên không.

Trung Quốc cũng đã xuất sắc trong việc phát triển công nghệ và tên lửa. Lực lượng quân sự thông thường cũng đã có tên lửa không-đối-không mới và tên lửa hành trình phóng từ dưới biển chống tàu đầu tiên. Còn lực lượng quân sự chiến lược của Trung Quốc còn nhận được không chỉ tên lửa đạn đạo mới, mà còn có cả tên lửa đủ khả năng chính xác nhắm đến mục tiêu một con tàu trên biển (nếu kết hợp với một hệ thống giám sát đại dương đủ đảm bảo độ chính xác). Lo ngại sự thống trị của Mỹ trong không gian, Trung Quốc đưa vào quỹ đạo vệ tinh quân sự riêng của mình cũng như thiết kế và thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh, đầu tiên vào năm 2007 và sau đó có thể lặp lại sớm nhất vào năm 2013.

J-31 và những tiến bộ về công nghệ sản xuất máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã khiến nhiều nước ngạc nhiên.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn còn tồn tại không ít những thiếu sót. Các tàu chiến mới do Trung Quốc tự đóng đa số sử dụng động cơ tuabin khí đốt Ukraina mà được hệ thống radar tìm kiếm trên không của Nga bảo vệ. Và mặc dù Viện Thiết kế Máy bay Chengdu của Trung Quốc và Tổng công ty Máy bay Thẩm Dương đã làm giới quan sát sửng sốt khi cho ra mắt của máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ tiếp theo J-20 và J-31, nhưng hầu hết các hạm đội máy bay chiến đấu nâng cấp của Trung Quốc vẫn còn sử dụng những động cơ phản lực được Nga và Ukraina thiết kế và sản xuất.

Chưa hết, người ta còn cảm thấy rất ngạc nhiên khi biết rằng Trung Quốc đã đàm phán với Nga để mua chừng 48 máy bay chiến đấu Su-35 mới, cho dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng.

Cả châu Á cùng “vào cuộc”

Trung Quốc đã không “đơn độc”. Nhiều quốc gia châu Á khác cũng đã làm như vậy ngay từ những năm đầu của thập niên 1990 dù gần đây họ đều gặp phải những rắc rối vì khủng hoảng kinh tế.

Khi nền kinh tế của Nhật Bản vật lộn đầu tiên với hai "thập niên mất mát", các lực lượng tự vệ Nhật Bản cố gắng duy trì cơ cấu lực lượng - chủ yếu nhờ sự hỗ trợ của Tokyo đối với các công ty hàng không vũ trụ và các công ty đóng tàu để có được sự ổn định cho loại máy bay chiến đấu F-2 và tàu chiến mới.

Quân sự của Ấn Độ ở tình trạng còn tồi tệ hơn. Trong suốt những năm 1990, sức mạnh của Ấn Độ bị suy sụp trước hoạt động nổi dậy chống đối ở Kashmir, trong khi ngân sách bị teo lại do lạm phát cao và đồng tiền mất giá. Kết quả là, quân đội Ấn Độ phải chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh Kargil năm 2002 chủ yếu bằng các trang thiết bị lỗi thời.

Tàu sân bay Vikramaditya của Ấn Độ


Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 xảy ra tại Hàn Quốc và nhiều nước Đông Nam Á đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tham vọng hiện đại hóa quân sự của họ. Ví dụ như Thái Lan từng mơ ước trở thành một cường quốc hải quân châu Á. Đầu những năm 1990, Bangkok thậm chí tài trợ xây dựng mới một tàu sân bay đầu tiên của khu vực Đông Á, mang tên Chakri Naruebet, đưa vào hoạt động năm 1996. Nhưng ngay sau khi cuộc khủng hoảng, các tàu tạm dừng hoạt động tại cảng, chỉ có thể đi lại một ngày trong tháng để duy trì và hỗ trợ cho số máy bay phản lực Harrier ít ỏi còn lại. Một số phận tương tự xảy ra với máy bay chiến đấu F/A-18 và MiG- 29 hiện đại của Malaysia. Với chi phí bảo dưỡng cao nên hiếm khi có thể bay, do vậy khả năng sẵn sàng chiến đấu cũng bị ảnh hưởng.

Bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, kinh tế châu Á đã bắt đầu hồi phục và kéo theo đó là các chương trình nâng cấp quân đội bắt đầu được tái khởi động.

Đầu tiên là Ấn Độ. Nhưng thách thức lớn nhất chính là bộ máy quan liêu và lãng phí của chính mình. Chương trình xe tăng Arjun là điển hình của sự kém hiệu quả này, thì một thực tế còn đáng lo ngại hơn là quân đội sau 27 năm chờ đợi không còn chịu đựng nổi để nhận bất cứ pháo binh mới nào. Tuy nhiên, Ấn Độ đã thành công trong việc nâng cấp cơ sở dọc theo biên giới tranh chấp với Trung Quốc và trong vịnh Bengal, sau một số chi phí quá mức, cùng với việc đưa vào sử dụng một tàu sân bay tân trang lại của Liên Xô, mang tên Vikramaditya, cũng như tàu ngầm tấn công hạt nhân mới Akula.

Cũng phục hồi từ cuộc khủng hoảng nợ vào giữa thập niên, Hàn Quốc hồi sinh kế hoạch hiện đại hóa quân sự của mình. Kể từ đó, nước này đã mua sắm xe tăng mới, xe chiến đấu bọc thép, tàu khu trục Aegis trang bị đầy đủ, và sáu tàu ngầm loại 214.

Nhìn chung, chỉ trong vòng vài năm qua hầu hết các nước châu Á khác đều tăng tốc các chương trình hiện đại hóa quân sự của họ. Indonesia cũng bắt đầu hiện đại hóa với quy mô lớn trong năm 2012 với nhiều đơn đặt hàng các loại xe chiến đấu, 3 tàu ngầm loại 209 do Hàn Quốc xây dựng, một số lượng nhỏ các máy bay chiến đấu Su-30MK2, và một lượng lớn hơn các máy bay huấn luyện và vận tải. Nhưng có lẽ điểm ngoặt ấn tượng nhất là ở Philippine mà trước đó các bộ phận của lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ bên ngoài giảm xuống gần như không tồn tại. Sự thay đổi diễn ra vào năm 2011, khi Manila mua hai chiến hạm sắp được "nghỉ hưu" của Mỹ và bắt đầu thảo luận với Nhật Bản về 10 tàu tuần tra nhỏ. Kể từ đó, chính phủ Philippine đã lùng sục khắp thế giới cho các thiết bị quân sự, gần đây đã đàm phán mua hàng chục máy bay chiến đấu của Hàn Quốc và thậm chí còn cân nhắc mua hai tàu khu trục tên lửa Italia.

Tiêm kích đa năng Su-30 MK2 của không quân Indonesia.


Nhật Bản nằm trong số các quốc gia mới nhất tăng cường tốc độ chi tiêu quân sự. Bên cạnh việc tiếp tục chương trình mỗi năm 1 tàu ngầm tấn công và 1 khu trục mới, tốc độ này có thể tăng lên trong những năm tới.

Nhật Bản cũng đã thay thế tàu chiến cũ bằng những con tàu mạnh mẽ hơn nhiều. Hai tàu khu trục lớp Shirane từ thời 1970, mang theo ba máy bay trực thăng mỗi tàu, sẽ được thay thế bằng hai tàu 22DDH mới - "tàu khu trục máy bay trực thăng" - mỗi một tàu trong số đó trên danh nghĩa sẽ có thể mang theo cả tá máy bay trực thăng, nhưng kích thước và sự di chuyển của chúng sát hơn với những tàu tấn công đổ bộ của Mỹ Wasp, có khả năng hoạt động cho máy bay chiến đấu V/STOL và 40 máy bay trực thăng.

Tàu khu trục 22DDH đầu tiên, mang tên Izumo, đã được hạ thủy trong tháng 8/2013. Với chiến thắng của liên minh Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong cuộc bầu cử thượng viện của Nhật Bản một tháng trước đó, có thể là ông sẽ thúc đẩy thông qua các biện pháp mới để tăng tốc độ mua sắm tàu chiến và tàu bảo vệ bờ biển, sự giảm giá gần đây của đồng yên Nhật Bản có thể buộc ông phải mở rộng việc mua các máy bay chiến đấu của Mỹ.Ngoài Trung Quốc, chỉ có Singapore đã liên tục dành nguồn lực để nâng cấp tất cả ba chi nhánh lực lượng vũ trang của mình từ những năm 1990. Kết quả là quốc đảo này đã có thể chuyển đổi các lực lượng quốc phòng địa phương thành quân đội hiện đại với khả năng triển khai sức mạnh đáng kể, bao gồm không chỉ các tàu ngầm tấn công, mà còn cả tàu đệm khí đổ bộ và không chỉ có máy bay chiến đấu F-15SG và F-16C/D, mà cả máy bay được hỗ trợ hệ thống mạng AEW&C và máy bay tiếp nhiên liệu trên không. Ngày 8/9, Singapore đã chuẩn bị nhận bàn giao chiếc tàu ngầm lớp Archer thứ hai và có khả năng sẽ là quốc gia thứ hai châu Á, sau Nhật Bản, mua được tiêm kích F-35 của Mỹ.
Phần 2
“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” – nguyên nhân dẫn đến việc phình to của ngân sách quốc phòng tại các nước châu Á chẳng giống nhau nhưng có điều, chúng lại liên quan khá nhiều đến một cái tên quen thuộc ở châu Á: Trung Quốc.


Chuyện trong nhà

Không thể phủ nhận, những chương trình hiện đại hóa quân sự có liên quan khá nhiều đến các tính toán chính trị trong nước. Ở những nước mà quân đội can thiệp vào đời sống chính trị, các chính trị gia dân sự đôi khi phải sử dụng ngân sách quốc phòng lớn hơn nhằm mua sự bình yên. Một lý do khác liên quan đến chi phí quân sự được gắn trực tiếp đến việc ủng hộ các công ty trong nước được ưu đãi, hoặc các ngành công nghiệp hoặc cung cấp việc làm địa phương. 


Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với một quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng tương đối phát triển như Ấn Độ, Nhật Bản và Singapore. Đơn đặt hàng thường xuyên đối với các tàu chiến và tàu ngầm của Nhật Bản có thể phản ánh niềm hy vọng duy trì vị trí ngành đóng tàu của đất nước ngang với mong muốn cải thiện an ninh, đặc biệt là sau khi các đơn đặt hàng tàu thương mại chủ yếu chuyển sang các nước “giá rẻ” như Trung Quốc và Hàn Quốc.

Giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng cách xây dựng quân đội truyền thống là không đủ để chống lại sức mạnh hải quân và không quân của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương và đã thúc đẩy hiện đại hóa PLA.


Mặc dù vậy, những toan tính chiến lược liên quan đến những thay đổi trong môi trường địa chính trị đã đóng vai trò lớn nhất trong việc tăng cường quân sự ở châu Á.

Ngay từ năm 1991, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, sau khi chứng kiến sự thành công không thể phủ nhận về vũ khí và cách tổ chức của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh đã nhận ra sự cần thiết phải hiện đại hóa lực lượng vũ trang của họ. Cuối cùng giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu ra rằng cách xây dựng quân đội truyền thống là không đủ để chống lại sức mạnh hải quân và không quân của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương và chỉ có cách hiện đại hóa quân sự toàn diện mới có thể hy vọng ngăn chặn các nước khác tác động đến "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc.


Bị đe dọa bởi Trung Quốc?


Việc tăng tốc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng châu Á nhận thấy sự suy giảm an ninh tương đối. Ấn Độ đã nhanh chóng phản ứng bởi những nghi ngờ trong lịch sử với Trung Quốc - kẻ thù trong cuộc xung đột biên giới năm 1962 giữa Trung Quốc và Ấn Độ và là một đồng minh của Pakistan - kẻ thù lâu năm của Ấn Độ. Và trong suốt những năm 2000, New Delhi không ngừng lo ngại về sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc với việc sử dụng (cả mục đích dân sự - quân sự) các cơ sở hạ tầng sân bay, đường sắt, và đường bộ ở Tây Tạng và những lợi ích thương mại ngày càng tăng ở Ấn Độ Dương.


Khi sức mạnh quân sự tăng lên, Trung Quốc lập tức lấn tới trong các tuyên bố chủ quyền.


Không xa lạ gì với các kế hoạch bao vây, các chuyên gia an ninh Ấn Độ đã nhận thấy Trung Quốc phát triển một "chuỗi ngọc trai" trên Ấn Độ Dương và có thể một ngày nào đó bao vây Ấn Độ. Và như vậy, ngay cả khi Trung Quốc thường nêu khẩu hiệu chống lại Mỹ, nhưng Ấn Độ cũng phải chú trọng đến khả năng quân sự của mình để đối phó với Trung Quốc và tự bản thân thấy mình cũng bị đe dọa. Ấn Độ cho xây dựng 6 tiền đồn trên núi (bao gồm cả hai tiền đồn mới) ở Arunachal Pradesh chỉ để đối mặt với 3 chốt tuần tra núi của Trung Quốc ở phía bên kia. Trong năm 2013, Ấn Độ thậm chí quyết định "về nguyên tắc" tài trợ cho một quân đoàn "tấn công" mới, để củng cố cho các đơn vị tiền tuyến một khả năng tấn công tốt hơn.


Trong những năm gần đây, nhiều nước châu Á khác đã bắt đầu phản ứng tương tự với sự tăng cường quân sự của Trung Quốc, mặc dù họ trước đó đã hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc bởi vì những lợi ích kinh tế được mang lại. Nhưng khi Trung Quốc tự tin với việc gia tăng ảnh hưởng kinh tế và sức mạnh quân sự, Bắc Kinh bắt đầu khẳng định ưu tiên lợi ích của mình trong các tranh chấp với khu vực Đông Nam Á. Thay vì chấp nhận đối thoại đa phương, Trung Quốc dường như ngày càng đứng ngoài mối quan tâm khu vực Đông Nam Á và theo đuổi mục tiêu của mình riêng biệt hoặc chỉ thông qua đàm phán song phương. Thực tế là phương pháp tiếp cận gần đây của Trung Quốc xung đột với cả việc phân chia sử dụng sông Mekong và cả biên giới trên biển của nước này ở Biển Đông.



Vào cuối năm 2007, Bắc Kinh đã nâng cấp cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trở thành "thành phố cấp quận" tại tỉnh Hải Nam. Sau đó, Trung Quốc đưa tuyên bố chủ quyền Biển Đông trở thành "lợi ích cốt lõi" của mình - thể hiện sự sẵn sàng chiến đấu. Một số nước Đông Nam Á công khai đối đầu với sự quyết đoán của Trung Quốc tại Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 vào năm 2010.


Các nước Đông Nam Á hiểu rằng cần phải tăng cường năng lực quốc phòng trước thái độ ngày càng ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trung Quốc đã cảm thấy tức giận khi bị cự tuyệt. Trong năm 2012, Trung Quốc bị làm tăng thêm căng thẳng khi cho xây dựng cơ sở trên bãi cạn Scaborough mà Philippine tuyên bố chủ quyền và gây ra bế tắc hàng hải kéo dài hàng tháng. Kết quả là, mặc dù nhiều nước Đông Nam Á từng cho rằng lợi ích của Trung Quốc trong việc tăng cường quân sự là một phần của "sự trỗi dậy hòa bình" giờ đây họ cũng cẩn thận với Trung Quốc hơn rất nhiều và việc mua sắm quân sự cũng trở nên cấp bách hơn.



Một loạt sự kiện tương tự xảy ra ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) mà Nhật Bản kiểm soát ở biển Hoa Đông. Bắt đầu từ năm 2010, tàu tuần tra Trung Quốc và Nhật Bản đã phải đối mặt nhau trong các vùng biển xung quanh các đảo. Sau đó, Bắc Kinh tăng cường tuần tra hàng hải tại khu vực này và cho phép công dân nước mình trút sự tức giận vào những lợi ích thương mại của Nhật Bản tại Trung Quốc. Mặt khác, ngày càng nhiều người Nhật thừa nhận sự cần thiết phải tăng cường chuẩn bị quốc phòng. Kết quả là Tokyo đã triển khai thêm một phi đội máy bay chiến đấu F- 15J đến Okinawa và duy trì tuần tra bảo vệ ở gần quần đảo tranh chấp suốt ngày đêm. Tuy nhiên, nhu cầu duy trì tuần tra như thế khiến các thiết bị của các lực lượng tự vệ của Nhật Bản và bảo vệ bờ biển đã bắt đầu căng thẳng, dẫn đến nhu cầu về máy bay và các tàu mới có khả năng hơn.



Một số chuyên gia hiện nay cho rằng tăng cường quân sự của châu Á có thể dẫn đến tình trạng chạy đua vũ trang của một hoặc nhiều nước, thậm chí là giữa liên minh các nước. Cho đến nay, không một quốc gia châu Á hoặc liên minh các quốc gia có thể đủ khả năng để cạnh tranh trực tiếp với tốc độ cũng như quy mô hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, ngăn cản sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy chưa hẳn là một cuộc chạy đua vũ trang, nhưng phần lớn việc tăng cường trang bị quân sự của châu Á có thể được mô tả như là một cuộc đuổi bắt vũ trang. Mặc dù các nước châu Á không đưa ra một khẩu hiệu đối với Trung Quốc, song họ đã cố gắng tăng cường sức mạnh quân sự - một phần thông qua việc hiện đại hóa quốc phòng và một phần thông qua các mối quan hệ gần gũi hơn với các cường quốc bên ngoài làm rào cản chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc.


Chẳng có gì nghi ngờ đó là lý do tại sao các nước châu Á như Ấn Độ, Nhật Bản, Philippine.... có lợi ích dường như rất khác nhau trong quá khứ, hiện nay lại trở nên quá quan tâm đến hợp tác kinh tế và hợp tác an ninh.


Phan Sương - Infonet.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét